Gm. Luy Nguyễn Anh Tuấn
1. Thực trạng li hôn của các gia đình trẻ Việt Nam
Theo những cuộc điều tra nghiên cứu mới đây, tình trạng li hôn ở các nước châu Á trong đó có Việt Nam có xu hướng tăng mạnh. PGS.TS Nguyễn Hữu Minh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu gia đình và giới (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) cho biết gần đây có trên 60.000 vụ li hôn/năm ở Việt Nam và xu hướng này đang tiếp tục tăng. Theo nghiên cứu của TS Nguyễn Minh Hòa (ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TP HCM), tỉ lệ li hôn/kết hôn ở Việt Nam là 31,4%, tức là cứ ba cặp kết hôn lại có một cặp li hôn. Kết quả của cuộc khảo sát “Tình hình li hôn trong thanh niên ở TP. Hồ Chí Minh” (2010) của Trung tâm Tư vấn giáo dục tâm lý – thể chất TP. Hồ Chí Minh, và kết quả nghiên cứu của một số tài liệu, đã chứng minh được một thực tế đang tồn tại ở TP. Hồ Chí Minh, đó chính là thực trạng li hôn sớm của giới trẻ đang ngày càng phổ biến và đáng báo động.
Gần đây độ tuổi li hôn ngày càng trẻ hóa. Điều đáng buồn là trên 70% số vụ li hôn thuộc về các gia đình mà vợ, chồng trong độ tuổi từ 22-30. Trong đó, có trên 60% li hôn khi mới kết hôn từ 1-5 năm và hầu hết đã có con. Trong cuộc sống hiện đại, dường như những cặp vợ chồng trẻ chưa cảm nhận hết được những giá trị của gia đình. Trước khi bước vào cuộc sống chung họ không có sự chuẩn bị đối mặt với khó khăn. Để rồi mỗi khi xảy ra va chạm, họ thường chọn giải pháp tiêu cực: li hôn. Khi cưới, họ chỉ xác định một điều “hết mình vì yêu” mà không nghĩ đến việc họ phải thay đổi để thích ứng với cuộc sống mới. Vì thế, họ chia tay nhau.
Hiện nay, tỉ lệ li hôn ở Việt Nam đang còn ở mức thấp so với thế giới, nhưng trong tương lai xu hướng trên sẽ còn tiếp tục lan rộng. Đó là hệ quả tất yếu trong một xã hội có nền kinh tế được ưu tiên phát triển mạnh, giới trẻ lại chuộng xu hướng sống gấp, không tìm hiểu và chuẩn bị kĩ càng hành trang trước khi bước vào cuộc sống gia đình.
Thực tế này đặt câu hỏi cho các Kitô hữu và các gia đình Kitô hữu: sứ vụ của gia đình Kitô hữu ngày nay nhằm vào sứ vụ trọng tâm nào?
2. Được tạo dựng để chung hưởng niềm vui
Chúng ta luôn trăn trở về nguồn gốc và ý nghĩa cuộc sống: tôi từ đâu tới? tại sao tôi có mặt ở đây? tôi đang đi về đâu? Sống để làm gì vì cuối cùng rồi ai cũng phải chết? Tôi phải sống như thế nào? Hạnh phúc thật là gì?
Thời đại ngày nay cho nhiều ý kiến giải đáp rất dị biệt gây bối rối thêm. Nhiều người thành tâm tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống, nhưng không biết nên đặt niềm tin vào đâu và phó thác cuộc đời và định mệnh mình vào ai. Giữa tình trạng ngổn ngang và mập mờ đó, các Kitô hữu là những người tin vào Đức Giêsu Kitô, chỉ cho thế giới thấy vui mừng và hi vọng, yêu thương và phục vụ của họ cắm rễ sâu trong cuộc Gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, Chết và Phục sinh. Đức Giêsu Kitô là một cứ điểm chắc chắn cho ta đặt niềm tin cậy. Phẩm giá con người được bảo đảm vững chắc nơi Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người. Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai. Nơi Đức Giêsu, chúng ta gặp một Thiên Chúa luôn muốn gần gũi chúng ta, Đấng tạo dựng sự hiệp thông và mời gọi chúng ta chia sẻ niềm vui với Ngài. Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi hiệp thông với Ngài và với nhau. Tình yêu này là cùng đích và định hình cho mọi khía cạnh của cuộc sống con người, bao gồm gia đình.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là ai, đồng thời cũng cho biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta và luôn muốn vươn tới gần chúng ta. Nhưng Đức Giêsu cũng mạc khải con người là ai. Công đồng Vaticanô II, khi nói về Đức Giêsu với tư cách là “Ngôi Lời” của Thiên Chúa, dạy rằng: “Sự thật là chỉ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể mầu nhiệm về con người mới được phơi bày ra ánh sáng”[1]. Chính trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta mới có thể học biết được sự thật về chính chúng ta. Sự thật đó, chúng ta không thể sáng tạo cũng không thể hiểu khác đi. Thánh Kinh cũng đã từng đề cập: “Sự sống của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô” (Cl 3,3). Người công giáo tin rằng Thiên Chúa yêu thương thế gian (Ga 3,16), đến nỗi thay vì Thiên Chúa để chúng ta sống trong sự hiểu biết mơ hồ, Ngài đã mặc lấy xác phàm nhân để mạc khải cho con người biết Thiên Chúa là ai và con người là ai. Công đồng Vaticanô II giải thích:
Lý do nền tảng của nhân phẩm là ở chỗ con người được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa. Ngay từ khởi thủy, con người đã được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa. Bởi vì con người sẽ không hiện hữu nếu không được tạo dựng vì yêu thương và luôn luôn được gìn giữ cũng vì yêu thương. Và hơn nữa, con người chỉ sống trọn vẹn theo sự thật khi tự do nhìn nhận tình yêu ấy và hiến dâng bản thân cho Đấng Tạo Dựng nên mình.[2]
Nói về con người, được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa, thì phải quy chiếu về Thiên Chúa. Nếu bản tính của Thiên Chúa là Ba Ngôi thông hiệp và nếu chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh đó, thì bản tính của chúng ta phải là tùy thuộc lẫn nhau. Là người, chúng ta cần sống hiệp thông với nhau[3]. Được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, điều đó có nghĩa là niềm vui và sự viên mãn đích thực của chúng ta hệ tại ở việc chúng ta có hiểu biết, yêu mến và phục vụ lẫn nhau như Thiên Chúa đã làm hay không. Chúng ta có trở thành một tặng phẩm hiến dâng chân thành hay không. Để được sự sống phải đành mất mạng sống vì Chúa (x. Mt 10,39; 16,25).
Thế nhưng hình ảnh của Thiên Chúa đó ở nơi chúng ta thể hiện một cách tiêu biểu nhất và bí tích, là nơi đời sống đôi bạn trong hôn nhân – gia đình. Sự hiệp thông phong nhiêu của đời sống hôn nhân – gia đình là hình ảnh phản chiếu sự hiệp thông vô hình của Thiên Chúa. Yêu thương, nâng đỡ và bổ túc cho nhau trong một đời sống chung thân mật duy nhất (unitive), và sinh sản cùng nuôi dạy con cái (procreative) là những mục đích gắn kết không thể tách rời của hôn nhân.
Khi giảng dạy về hôn nhân, chính Chúa Giêsu quy chiếu đến kế hoạch và ý định của Thiên Chúa về công trình tạo dựng. Khi những người Pharisêu thách thức hỏi Chúa Giêsu về vấn đề li dị, câu trả lời của Người nhắc chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, và đôi vợ chồng trở thành một xương một thịt (Mt 19,3- 12; Mc 10,2-12)[4]. Cũng vậy, khi Thánh Tông đồ Phaolô viết thư cho các tín hữu thành Côrintô nói về đạo đức tính dục, ngài nhắc họ nhớ về sự kết hợp nên một xương một thịt giữa người nam và người nữ trong công trình tạo dựng (1Cr 6,16). Khi ngài viết cho các tín hữu Êphêsô về đạo vợ chồng, một lần nữa ngài nhắc họ sự kết hợp nên một này, và bảo họ rằng đó là một “mầu nhiệm cao thẳm” muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh (Ep 5,32).
Như thế, chúng ta, người nam và người nữ, được Chúa tạo dựng để chung hưởng niềm vui với Ngài và với nhau.
3. Yêu thương là sứ mệnh của chúng ta
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói:
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như Ngài. Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời kêu gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và nơi chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng loài người theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo tồn nó luôn hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào nhân tính của người nam và người nữ, ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Như vậy, tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người[5].
Ta phải sống như thế nào để tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện và chiếu giải?
Thước đo tình yêu con người là xem cách mà Thiên Chúa yêu thương.[6] Muốn thế, chúng ta phải khiêm hạ, làm cho con tim chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa và nhìn thế giới qua lăng kính của Ngài.
Thiên Chúa yêu thương ta cách thân tình, dịu dàng và khát khao. “Các tiên tri, đặc biệt là Hôsê và Êdêkiel, diễn tả niềm say mê của Thiên Chúa đối với dân Ngài, qua việc sử dụng cách bạo dạn những hình ảnh yêu đương”[7]. Tình yêu Thiên Chúa kiên trung, giàu thương xót[8]: vẫn nói yêu thương cả khi Israel phản bội Ngài. Thiên Chúa vẫn nhẫn nại yêu thương dân Ngài, ngay cả khi chúng ta sa ngã phạm tội, ngay cả khi chúng ta cứ cứng lòng sống như không có Người. Tương tự, tình yêu hay bác ái Kitô giáo sâu hơn những cảm xúc nhất thời rất nhiều. Nó gồm cả khía cạnh tình cảm và đam mê, nhưng nó cũng là một sự chọn lựa. Tình yêu là một sứ vụ chúng ta lãnh nhận, một sự sắp đặt mà ta chấp nhận, một lời kêu gọi chúng ta tự nguyện bước theo. Loại tình yêu này có những chiều kích mà ta có thể khám phá khi chịu nhượng bộ. Loại tình yêu này tìm kiếm và bước theo Thiên Chúa, mà nếu ta trung tín với giao ước của Ngài chúng ta sẽ học biết được thế nào là tình yêu. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi Israel để tìm một bạn tình hấp dẫn khác. Ngài cũng chẳng nản lòng khi bị khước từ. Ngài không bao giờ đổi dạ thay lòng. Ngài chỉ muốn điều tốt lành nhất, điều chân thật và điều thiện tối hậu cho dân Ngài. Và trong khi tình yêu của Ngài dành cho Israel cũng đam mê khát vọng (điều này không ai chối cãi nếu đọc các sách tiên tri) chính khía cạnh “dục tình” này trong tình yêu thần linh luôn được triển nở nhờ sự trung tín hy sinh của Thiên Chúa[9]. Tình yêu đam mê của Thiên Chúa luôn hợp nhất với lòng thương xót và kiên nhẫn của Ngài.
Đức Giêsu giúp các Kitô hữu nói một cách xác tín về tình yêu Thiên Chúa. Người tỏ bày giao ước của Thiên Chúa cho mọi dân tộc, bằng cách hoàn tất lịch sử của Israel như là một câu chuyện phổ quát về ơn cứu độ. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu tự hiến, bởi vì, chính Người, [Ngôi] Lời của Thiên Chúa mặc lấy xác phàm. Người yêu thương Hội thánh như Tân nương của Người. Và chính tình yêu vô vị lợi này (được minh chứng bằng máu Người đổ ra trên thập giá) làm mẫu cho thứ tình yêu phục vụ lẫn nhau cần thiết trong mọi cuộc hôn nhân và gia đình Kitô giáo. Các cặp vợ chồng được kêu gọi hãy sống hiệp thông trong tình yêu tự hiến như hi tế thập giá. Tình yêu đích thực, không chỉ là cảm xúc hay sự quyến rũ nồng nàn, lớn lên từ những gì chúng ta hiến ban cho tha nhân. Cái khả năng từ bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của mình mà hiến thân cho tha nhân, một điều rất nền tảng và có sức giải phóng, là sợi chỉ nối kết toàn bộ giáo huấn công giáo về hôn nhân và gia đình.
Gia đình Kitô hữu như là một sự thể hiện bí tích “dung mạo” của Lòng Thương Xót của Gia đình Thiên Chúa. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong lần viếng thăm đầu tiên các nước châu Mỹ, đã nói: “Thiên Chúa trong mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Ngài không đơn độc nhưng là một gia đình vì lẽ Thiên Chúa trong Ngài có Cha, có Con và có Yếu tính của gia đình, tức là Tình Yêu”[10]. Hiển nhiên, Tình Yêu này không phải là một sự gì mà chính là Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Và dĩ nhiên, Cha, Con, và Thánh Thần không phải là những từ ngữ mang sắc thái “giới tính”, nhưng là những thuật ngữ có “tính tương quan”. Diễn ngữ “gia đình Thiên Chúa” mang tính thần học, chứ không có tính sinh học, diễn tả các mối quan hệ vĩnh cửu giữa Ba ngôi Thiên Chúa sống trong tình Hiệp thông.
Đức Giáo hoàng không nói Thiên Chúa như một gia đình, nhưng nói Thiên Chúa là gia đình. Từ thuở đời đời Thiên Chúa có những thuộc tính nền tảng của một gia đình (kẻ làm cha, người làm con và tình thương yêu) và những thuộc tính ấy hoàn mỹ nhất. Các gia đình người ta có lẽ phải nói là “như” một gia đình thì đúng hơn, vì các nhân vật và các tương quan gia đình không toàn hảo. Chúng ta vẫn luôn còn đó những vết rạn hỏng hóc, không có những thuộc tính gia đình hoàn thiện. Chỉ Thiên Chúa mới có, vì Ngài là Chân, Thiện, Mỹ. Thiên Chúa là gia đình. Chúng ta chỉ là họa ảnh của Ngài.
Không một gia đình nhân loại nào giống sát sao Ba Ngôi diễm phúc như Thánh Gia của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse. Quả thật, điều rất ý nghĩa, là chính Thiên Chúa đã chọn sinh ra làm người trong một gia đình nhân loại. Ngài đã có thể bước vào lịch sử nhân loại bằng muôn vàn cách thức khác nhau; vì Ngài toàn năng. Nhưng rốt cuộc, Ngài đã chọn sinh ra bởi một người phụ nữ mà không có kết hợp thân xác với một người nam theo lẽ tự nhiên thông thường. Trong Thánh Gia Đức Giêsu đã sống một đời như hình ảnh thế trần của Ba Ngôi vĩnh phúc.
4. Danh Thiên Chúa là THƯƠNG XÓT
Các Giáo hoàng gần đây nhất rất xác tín về thời đại hôm nay là thời đại của Lòng Thương Xót.
Quả thế, khi Đức Giáo hoàng Gioan XXIII long trọng khai mạc Công đồng Vaticanô II, ngài nói rằng: “Ngày nay, Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng phương dược của lòng thương xót hơn là của sự nghiêm khắc… Hội Thánh Công giáo muốn thể hiện chính mình như một người mẹ đầy yêu thương của tất cả mọi người, một người mẹ từ ái, nhẫn nại, luôn được thôi thúc bởi lòng thương xót và nhân hậu đối với những người con đang xa rời mẹ”[11].
Trong quyển “Suy tư về Sự Chết,” Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã bộc lộ bản chất đời sống thiêng liêng của mình trong một tổng hợp mà thánh Augustinô đã nói đến: là sự Khốn cùng và Lòng Thương Xót. Đức Giáo hoàng Montini viết: “Sự khốn cùng của con, Lòng Thương Xót của Chúa, để con biết tôn kính Chúa. Thiên Chúa độ lượng vô cùng vô tận, để con cầu khẩn, đón nhận và mừng kính Lòng Thương Xót ngọt ngào của Chúa”.[12]
Thánh Gioan Phaolô II đưa khái niệm này đi xa hơn nữa trong Thông điệp Dives in Misericordia (Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót). Ngài khẳng định rằng Giáo hội sống thật khi tuyên xưng và công bố Lòng Thương Xót, căn tính kinh ngạc nhất của Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc, và khi Giáo hội dẫn dắt nhân loại đến suối nguồn Lòng Thương Xót. Hơn nữa, Đức Gioan Phaolô II còn thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, chứng thực cho thánh Faustina Kowalska, và tập trung vào các lời Chúa Giêsu nói về Lòng Thương Xót.
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng nói về Lòng Thương Xót trong các giáo huấn của ngài: “Lòng Thương Xót, thực tế là cốt lõi của thông điệp Tin mừng, Lòng Thương Xót chính là danh thánh Thiên Chúa, là dung mạo Ngài đã bày tỏ trong Cựu Ước và biểu lộ trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô, thể hiện trong Tình yêu Tạo dựng và Cứu chuộc. Tình yêu thương xót này cũng chiếu tỏa gương mặt của Giáo hội, và được biểu lộ qua các bí tích, đặc biệt là trong bí tích Hòa Giải, cũng như trong các việc thiện của cộng đoàn hay cá nhân. Mọi sự mà Giáo hội nói và làm, cho thấy Thiên Chúa cảm thương con người”.[13]
Đức Giáo hoàng Phanxicô, chỉ vài tháng sau khi được bầu làm Giáo hoàng, trở về từ Rio de Janeiro sau Đại hội Giới trẻ Thế giới, ngài nói: “Thời đại chúng ta là thời đại của Lòng Thương Xót”. “Đúng thế, tôi tin rằng đây là thời đại của Lòng Thương Xót. Giáo hội đang thể hiện khía cạnh mẫu tử của mình, gương mặt người mẹ của mình với một nhân loại bị tổn thương. Giáo hội không chờ cho người bị thương đến gõ cửa, nhưng đi ra các ngả đường để tìm kiếm, để quy tụ; Giáo hội ôm lấy và chăm lo, cho họ cảm nhận mình được yêu thương. Thế nên, như tôi đã nói và tôi tin chắc hơn bao giờ hết, đây là một kairos, kỉ nguyên của Lòng Thương Xót, một thời gian thích hợp”[14].
5. Gia đình Kitô hữu là Hội Thánh tại gia: chứng từ của Lòng Thương Xót
Đã từ hai ngàn năm, các gia đình Kitô hữu bởi chứng từ cuộc sống hằng ngày đã giúp bao nhiêu người trở lại với đức tin. Bằng cách sống “yêu thương trong những việc nhỏ” – cách mà các đôi vợ chồng chăm sóc cho nhau, nuôi dạy con cái, làm các việc thường ngày, và tỏ lòng nhân ái tử tế đối với mọi người xung quanh – các gia đình này đã chứng thực cho quyền năng biến đổi của ân sủng và vẻ đẹp của đời sống Kitô hữu.
Hiệu quả của cách thức làm chứng đặc thù đó không phải là điều gì ngẫu nhiên. Bởi từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã có ý kết hợp người nam và người nữ nên “một xương một thịt” để thành dấu chỉ của Ngài và cách Ngài yêu mến. Thiên Chúa, như Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã nói, không đơn độc nhưng là một gia đình, mối hiệp thông đời đời giữa Cha, Con và Thánh Thần. Bởi Phép Rửa chúng ta trở thành thành phần của gia đình ấy, được nhận làm con và có sự sống riêng của Thiên Chúa trong chúng ta. Chúng ta cũng trở thành thành phần của Hội Thánh, hiền thê của Đức Lang Quân, người yêu của Người Yêu vĩ đại nhất, Đấng đã hiến thân mình cho hiền thê mình để “nàng trở nên thánh thiện và vô tì tích” (Ep 5,25-27). Vì thế, Thánh Phaolô có thể gọi hôn nhân là một mầu nhiệm cao vời sâu thẳm (Ep 5,32). Nhờ sự kết hợp của người nam và người nữ ấy, nhờ sự phong nhiêu của tình yêu họ, những hi sinh họ làm vì tình yêu, và ân sủng qua những hi sinh ấy, mà hôn nhân “tỏ lộ” Thiên Chúa Tình Yêu. Hôn nhân làm nhập thể một thực tại quá cao vời chúng ta không đủ sức để hiểu: Thiên Chúa là Tình yêu trung thành, phong nhiêu, có sức biến đổi.
Ngày nay có quá nhiều hôn nhân gia đình đổ vỡ, thất bại, không đáp ứng ý định của Chúa, kết thúc bằng ngoại tình hay li dị hoặc bị què quặt bởi mang não trạng chống thụ thai. Dẫu thế, hiệu quả của dấu chỉ bí tích vẫn không suy giảm nơi các cặp tiếp tục sống niềm tin, làm chứng cho tình yêu bằng cách sống hôn nhân của họ phù hợp với ý định của Thiên Chúa, mà có thể còn mạnh mẽ hơn. Theo Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, “Sự kết hợp một người nam và một người nữ nên “một xương một thịt” trong tình mến, trong tình yêu phong nhiêu và bất khả phân li, là một dấu chỉ nói về Thiên Chúa cách mạnh mẽ và thuyết phục, còn lớn lao hơn nữa cho thời đại hôm nay vì hôn nhân, thật không may, vì nhiều lí do đang đi qua khủng hoảng sâu sắc”[15]. Thách đố của các cặp Công giáo không chỉ là để cho hôn nhân của họ được biến đổi bởi ân sủng đức tin mà còn làm sao biến hôn nhân của họ thành một khí cụ bí tích thông truyền ân sủng và chân lí cho người khác. Các gia đình không chỉ là đối tượng của chăm sóc mục vụ nhưng còn là chủ thể loan báo Tin mừng cách mới mẻ.
Trong thời đại ngày nay, Kitô hữu phải sống lại tầm nhìn Gia đình như là một Hội thánh tại gia. Nhìn gia đình là nơi chốn để Tình yêu Thiên Chúa trở nên hữu hình và sống động, để tình yêu thành hiện thực, và đức tin được lưu truyền cho thế hệ tương lai. Gia đình phải là nơi đặc biệt cho chứng từ của cộng đoàn, một dấu chỉ giữa xóm phường và sống yêu thương.
Cuối cùng, giữa một thế giới tội lỗi như thế, chính gia đình cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng tác động. Tội làm đổ vỡ mối hiệp thông giao ước. Làm đổ vỡ các quan hệ giao ước. Tội là thất bại không thể yêu thương như những con cái Chúa được mời gọi yêu thương. Nhưng tin cũng là liên tục hoán cải, trở về với tình yêu con thảo với Chúa. Rất may Chúa còn để lại một phương dược chữa lành tội nhân: bí tích Sám hối hay Hòa giải. Bí tích này càng được sống nhiều hơn và sâu hơn trong thời đại quay về với Lòng Thương Xót của Chúa như ngày nay. Khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân yếu đuối, tin tưởng vào lòng từ bi, nhẫn nại và hay thương xót của Chúa, các đôi vợ chồng biết mình được yêu thương tha thứ thì cũng tha thứ cho nhau, và để Thần Khí của ơn tha thứ chan hòa biến đổi cả gia đình, và lan tỏa ra các gia đình xung quanh. Đức Giáo hoàng
Phanxicô nói: “Chúa không bao giờ mệt mỏi vì tha thứ. Chính chúng ta mới mệt mỏi vì đã không khẩn xin tha thứ”[16].
Nói cách vắn tắt, để loan báo Tin mừng về Lòng Thương Xót, thiết tưởng các gia đình Kitô hữu có thể loan báo bốn điểm trụ cột sau đây: Thiên Chúa yêu thương bạn; chúng ta đã phạm tội; Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại từ cõi chết để cứu chúng ta; và chúng ta phải đáp lại những ơn sủng đó bởi lòng tin. Loan báo trước hết bằng chứng từ cuộc sống trong hôn nhân – gia đình mình, giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em với nhau, mà điều quan trọng đầu tiên là nhận ra mình là kẻ tội lỗi được Thiên Chúa xót thương vô cùng, sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, chỉ cần chúng ta sám hối và tin vào Tin mừng.
- Kết
Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ thứ hai sau khi lên ngôi Giáo hoàng, ngày 17.03.2013, ngài giảng đoạn Phúc Âm người đàn bà ngoại tình trong Phúc Âm Thánh Gioan, khi các luật sĩ và các người biệt phái sắp ném đá theo luật định, Chúa Giêsu đã cứu bà. Chúa Giêsu nói ai nghĩ mình không phạm tội thì ném đá đầu tiên. Tất cả đều bỏ đi. “Ta cũng không xử tội con đâu! Đi đi! Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 11). Đức Thánh Cha đã giảng: “Anh chị em cũng vậy, đôi khi anh chị em thích đập người khác, thích lên án người khác”. Ngài nói thêm: “Bước đầu tiên và là bước duy nhất là nhận biết mình cần Lòng Thương Xót. Chúa Giêsu đến là để cho chúng ta, khi chúng ta biết mình là kẻ có tội”. Chỉ cần đừng như người biệt phái, đứng trước bàn thờ cám ơn Chúa vì mình không phải là người có tội “như tất cả những người khác”. Nếu chúng ta phản ứng như người biệt phái, nghĩ mình là người công chính, thì “chúng ta không biết lòng Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ có niềm vui cảm nhận được Lòng Thương Xót!”. Vị Tân Giám mục Giáo phận Rôma giải thích thêm: Ai quen phê phán người khác vì nghĩ mình là người không thể chê vào đâu được, mình là người công chính, là người tốt và ngay thẳng, người đó không cần được ôm vào lòng, không cần được tha thứ. Ngược lại, có những người cảm nhận mình cần được ôm, cần được tha thứ vì họ nghĩ mình đã mất tất cả do tội mình đã phạm.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 121 (Tháng 11 & 12 năm 2020)
WHĐ (23.03.2021)
Để lại một phản hồi
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.