Đường thẳng về quê thật
“Thế gian bách hại nhưng đã thắng
Thể xác đớn đau vẫn coi thường
Cái chết oai hùng con đường thẳng
Khải hoàn Thiên Quốc, chính Quê Hương”.
Đoạn Thánh Thi Kinh Sáng Phụng Vụ các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy cái nhìn của Giáo Hội về chứng tá oanh liệt của các chứng nhân đức tin. Với niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô, vào vinh phúc vĩnh cửu, các ngài đã sẵn sàng chấp nhận cái chết, từ bỏ cuộc sống trần gian để được khải hoàn với ngành lá vạn tuế. Các ngài đã chấp nhận “thua” để được “thắng”, chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc muôn đời, với một thái độ hiên ngang đến nỗi chính lý hình cũng phải ngỡ ngàng kính nể.
Thái độ kiên cường đó không chỉ giành riêng cho hàng giám mục, linh mục, tu sĩ, mà ngay cả những giáo hữu nghèo nàn, chất phác như trường hợp thánh Vinh Sơn Dương. Dưới ánh sáng của đức tin, ông Đương không hề sợ hãi nao núng khi chịu chết vì danh Chúa Kitô. Vinh Sơn Dương đã nằm xuống, nhưng danh tính ông sẽ mãi mãi lưu truyền đến thiên thu.
Cuộc đời và gian khổ.
Ông Vinh Sơn Dương sinh quán tại làng Doãn Trung, sau gọi là Phương Viên, thuộc xứ Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình, giáo phận Trung (nay là giáo phận Thái Bình). Ông lập gia đình và sinh được ba người con. Ngoài việc canh tác ruộng nương như mọi người nông dân khác, ông còn còn giữ thêm chức vụ thu thuế trong làng nữa. Cũng vì chức vụ này ông bị “quan tâm đặc biệt” hơn các giáo hữu khác trong thời bách hại.
Trong vòng chỉ trong 15 năm, vua Tự Đức đã lần lượt ra đến tám chiếu chỉ cấm đạo ngày càng gay gắt, và rộng rãi hơn. Tháng 08-1861 với chiếu chỉ Phân sáp, nhà vua đã động viên cả guồng máy quan quân cho đến những người dân ác cảm với đạo. Khi cho phép quan quân và người ngoại giáo được tịch thu tài sản, cũng như bắt các tín hữu về làm đầy tớ trong nhà, nhà vua đã đẩy họ vào tình cảnh bi đát nhất chưa từng có. Thế nhưng nhà vua đã lầm. Những giáo hữu tầm thường nhất, dù chỉ còn hai bàn tay trắng vẫn giữ được trái tim sắt đá, vẫn đủ sáng suốt can đảm để không bao giờ tuân lệnh độc đoán của nhà vua.
Khoảng cuối tháng 09-1861, ông Vinh Sơn Dương cùng với nhiều giáo hữu khác bị bắt và bị phân sáp vào làng Mỹ Nhuệ, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Suốt chín tháng bị giam giữ tại đây với bao hình khổ dữ dằn, bao sỉ nhục mắng nhiếc, ông Vinh Sơn Dương đã vui vẻ chấp nhận tất cả để giữ lòng trung tín với Chúa Giêsu, quyết không chà đạp lên Thánh Giá.
Ánh lửa tỏa khắp năm châu.
Cuối cùng, ngày 06-06-1862, ông Vinh Sơn Dương đã lãnh bản án thiêu sinh. Sau giờ hành quyết, các giáo hữu đã chôn cất vị anh hùng đức tin ngay nơi lãnh phúc tử đạo. Ít lâu sau, thi hài ông Dương được cải táng và rước về mai táng tại nhà thờ thánh Vinh Sơn, nơi quê hương của Ngài, chính vợ ông, bà Anrê Tịnh, hiện diện trong ngày xử án, sau cũng đến làm chứng cho chồng với giáo quyền để lập hồ sơ phong thánh.
Thế là sau 18 thế kỷ của lịch sử Kitô Giáo, một người nông dân Việt Nam lại bị thiêu sống như hàng loạt các tín hữu thời sơ khai tại hý trường Rôma thời bạo chúa Nêrôn. Có điều ánh lửa thiêu đốt ông Vinh Sơn Dương không lịm tắt đi nơi vùng quê của đất nước Việt Nam, nhưng sẽ bừng lên tỏa sáng khắp năm châu.
Ngày 29-04-1951, danh xưng ông Vinh Sơn Dương trở lên bất diệt, khi Đức Thánh Cha Piô XII long trọng suy tôn ông lên bậc Chân Phước tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Trong hiến chế giáo hội, Công Đồng Vatican II gợi lên cho chúng ta những suy nghĩ mỗi khi chiêm ngưỡng mẫu gương chết vì đức tin đáng trân trọng: “Khi tử đạo, người môn đệ đồng hóa với Thày mình, đấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu nhân độ thế. Giáo Hội coi việc tử đạo như một ân huệ lớn lao và là một bằng chứng cao cả về đức ái. Mặc dù chỉ một số ít được phúc tử vì đạo, nhưng tất cả mọi người đều phải sẵng sàng tuyên xưng Chúa Kitô trước mặt tha nhân và bước theo Ngài trên đường Thánh Giá giữa những cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội” (Số 42B).
Lm. Đào Trung Hiệu, OP
Để lại một phản hồi
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.