Linh Mục có được cử hành hay đồng tế hơn một Thánh lễ trong ngày không?

Hỏi :

1-  xin cha cho biết luật phụng vụ về cử hành Thánh Lễ và đồng tế của linh mục

 

2- có nhiều linh mục đồng tế thì được ích lợi thiêng liêng ra sao ?

 

3- có được phép gom nhiều ý lễ trong một Thánh Lễ hay không?

 

4- có nên cầu cho các thai nhi không ?

 

5- có được phép đi dự tiệc cưới của các cặp hôn nhân đồng tính không?

Trả lời:

  1-  Những ai sống ở Mỹ thì đều nhận thấy rõ điều này là  chỉ có ở các giáo xứ hay công đoàn Viêt nam ( Cali, Houston, Dallas,  New Ỏrleans…) mới có hiện tương nhiều linh mục đến đồng tế trong các lễ tang hay lễ cưới. Đây là điều  bên Việt Nam  cấm,  và ngay cả các giáo xứ Mỹ, Hispanic, Phi, Đại Hần  cũng không có  , mà chỉ ở  các giáo xứ  hay Cộng Đoàn dành riêng cho giáo dân Viêt Nam mới có mà thôi.

Tại sao lại có hiện tượng các linh mục đồng tế nhiều như vậy ở các giáo xứ Viêt Nam ở  Mỹ ?

Trước khi trả lời cho câu hỏi trên, tưởng cũng cần nói rõ thêm một lần nữa là theo giáo luật , linh mục chỉ được phép cử hành MỘT Thánh Lễ mỗi ngày mà thôi, trừ trường hợp có nhu cầu mục vụ chính đáng, như có đông giáo dân dự lễ trong các ngày Chúa Nhật và lễ buộc. Trong trường hợp này,  Đấng bản quyền địa phương- cụ thể là Giám mục địa phận, có thể cho phép các linh mục trực thuộc  làm 2 hay 3 lễ trong ngày để thỏa mãn nhu cầu mục vụ của giáo Xứ. ( x ,Giáo luật số 905).

Linh mục cử hành Thánh Lễ mà không được phép làm 2, hay 3 Lễ trong ngày , trừ trường hợp ngoại lệ  đã nói ở trên, thì linh mục đến đồng tế cũng phải theo luật này để không được đồng tế 2, hay 3 lễ trong ngày mà hoàn toàn vì lý do riêng, chứ không phải là vì nhu cầu mục vụ đòi buộc.Nghiã là không có luật ngoại lệ nào cho phép đồng tế nhiều lần như vậy trong ngày.Chỉ có luật cấm linh mục  Công Giáo dồng tế với các thừa  tác viên của các giáo đoàn chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo mà thôi, ( x. giáo luật số 908)

Liên can đến câu hỏi  1, Thực tế mà nói thì sở dĩ có nhiều linh mục đồng tế trong các dịp lễ tang hay lễ cưới ở Mỹ  là vì hai lý do sau đây:

  1. Linh mục có thân nhân hay hay bạn bè quen biếtcó người qua đời hay lễ cưới của con  em họ, nên  vì tình gia đình hay quen biết mà phải đi đồng tế.
  1. Ngoài lý do nêu trên, có nhiều linh mục đi đồng tế vì được người ta mời cho có đông linh mục trong các dịp lễ tang hay lễ cưới, vì thân nhân muốn được hãnh diện haykhoe khoang  với giáo xứ hay công đoàn.Tôi đã có lần chứng kiến trong một lễ có đông linh mục đồng tế, thân nhân của gia đình có lễ tang, đã cầm phong bì đến  hỏi tôi  xem cha đó là ai để trao phong bì ! Như vậy rõ ràng linh mục kia được ai mời đến cho đông,  chứ không phải vì là thân nhân hay quen biết của gia đình có tang lễ .

Một điều đáng nói thêm là ở địa phương kia nơi  có nhiều linh mục bên Viêt Nam qua Mỹ du học và  cư ngụ trong lãnh thổ giáo xứ. Nên mỗi dịp có lễ tang hay lễ cưới thì đa số các linh mục này đều đến đồng tế , mặc dù không có liên hệ họ hàng hay bạn bè với gia đình có lễ tang hay lễ cưới ! Họ đến vì được mời, chứ không phải vì liên hệ gia đình hay quen biết. Lại nữa cũng ở địa phương khác, các linh mục đã thi nhau đi đồng tế cuối tuần với  2, 3 lễ tang hay lễ cưới ở các giáo xứ  quanh vùng.Vì các linh mục phải chạy từ xứ này sang xứ kia cho kịp giờ lễ, nên người  ta đã nói “ các cha đi sô ( show) cưối tuần như các ca sĩ đi show trình diễn hết chỗ này đến chỗ khác !

Một  điều thông thường khó coi là thân nhân các lễ tang hay lễ cưới thường hay tặng phong bì cho các cha  trước hay sau Thánh lễ. Nếu thật sự vì thân quen thì không cần thiết phải tặng phong bì, một tệ trạng mà linh mục cần tránh để khỏi mang tiếng là “ đi Sô” để kiếm thêm thù lao không cần thiết cho đời sống linh mục ở Mỹ nói riêng. Không cần thết vì đời sống vật chất của linh mục ở Mỹ đã được cung cấp đầy đủ hơn các linh mục ở Âu Châu hay ở Viêt Nam rất nhiều, nên kiếm thêm tiền nhờ  đi đồng tế để làm gì ? Có nhiều tiền thì làm sao sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, “  Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tư ý trở nên khó nghèo vì anh  em , để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8: 9)

Có sống  đích thực tinh thần khó nghèo này của Chúa Kitô thì  linh mục mới có sức thuyết phục khi  giảng dạy cho giáo dân về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm, mà hơn ai hết linh mục phải là nhân chứng sống động bằng chính đời sống của mình trước mặt người đời. Linh mục mà  ham tiền, ham của cải và phương tiện vật chất sa hoa,   thì không thể sống gương khó nghèo của Chúa Kitô , “ Đấng  không có chỗ tựa đầu, trong khi con chồn có hang, chim trời có tổ”(Mt 8: 20 ).

Chúa nói : “ ai có tai nghe, thì nghe.” ( Mt  13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8)

 

2- Có nhiều linh mục đồng tế thì được ích lợi thiêng liêng ra sao ?

Tôi đã có dịp nói đôi lần về vấn đề này. Nay xin được nhắc lại một lần nữa  là ơn thánh Chúa ban cho ai còn sống hay đã qua đời hoàn toàn là nhưng không (  gratis=gratuitous) nghĩa là không thể mua được bằng tiền bạc, hay của cải vật chất nào. Cũng không lệ thưộc vào việc có nhiều hay ít linh mục đồng tế .

Sự thật phải tin là. nếu một người,  khi còn sống  đã hoàn toàn qui hướng đời mình về với Chúa, đã thực tâm yêu mến Chúa và cố gắng sống theo đường lối của Người, thì khi chết dẫu không có ai dâng lễ và đồng tế cầu nguyện cho, thì cũng không hề thiệt thòi gì, vì  đời sống của mình đã đủ để Chúa đoái thương ban phúc trường sinh sau khi chết.

Ngược lại, một người, khi còn sống,  đã quay lưng lại với Chúa  và khước từ lời Chúa mời gọi vào dự Bàn Tiệc Nước Trời,( Mt 22: 1-14),  thì sau khi chết, dẫu có cả trăm linh mục, giám mục, Hồng Y và ngay cả Đức Thánh Cha dâng lễ cầu cho, thì cũng vô ích mà thôi. Ơn thánh Chúa ban không hề  lệ thuộc vào có đông người làm lễ và cầu nguyện,  mà căn cứ vào chính đời sống của một người cho đến ngày lìa đời.

Có thêm linh mục đồng tế và đông người cầu nguyện cho thì  chỉ có ích khi linh hồn đã ra đi trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa được hoàn hảo đủ để vào ngay Thiên Đàng  , mà còn cần được thanh luyện ít nhiều thời gian  nơi Luyên Tội.( Purgatory). Chỉ các linh hồn thánh đang còn ở  nơi đây mới cần các Thánh trên Trời và người thân còn sống cầu nguyện và làm việc lành để đền thay cho  họ được sớm vào hưởng Thánh Nhan Chúa cùng các Thánh các Thiên Thần trên Thiên Đàng. Sở dĩ các linh hồn cần sự trợ  giúp này , vì họ  đã hết giờ làm việc lành  để tự cứu mình rồi..( x SGLGHCG số 1030-1032)

Như thế, cần thiết phải sống ngay lành, mến Chúa và yêu người thực sự, cùng quyết tâm xa tránh tội lỗi trong suốt cuộc đời của mình trên trần thế,  thì đó mới chính là bảo hiểm chắc chắn cho hy vọng  được cứu độ và sống đời đời với Chúa trên Nước Trời  mai sau.Cho mục đích đó, không ai có thể làm thay cho mình, kể cả việc  bỏ nhiều tiền ra xin lễ đời đời trước ở  các nơi buôn thần bán thánh, trong khi chính mình lại không tự cứu mình bằng đời sống hoàn toàn qui hướng về Chúa và  bước đi theo Chúa Kitô là “con Đường, là sự Thật và là sự sống.” ( Ga 14: 6), thì cũng vô ích mà thôi.

Nói rõ hơn, chính mình phải lo phần rỗi cho mình bao lâu còn sống trên trần gian này  bằng  đời sống tin, cậy, mến có chiều xâu thực sự .Còn  nhờ người khác cầu nguyện thêm cho chỉ là phần  phụ mà thôi. Nói khác đi, nếu  nhờ người khác làm thay, như  bỏ nhiều tiền ra xin lễ đời đời trước và nhờ các nhà Dòng cầu nguyện cho sau,  mà được  bảo đảm cho phần rỗi của mình,  thì những người giầu có sẽ vào Thiên Đàng hết, và chỉ người nghèo không có tiền xin lễ hay nhờ người khác cầu nguyện cho thì bị thua thiệt  hay sao ?

Chắc chắn không phải vậy, vì tình thương của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không bao giờ có thể mua được bằng tiền bạc hay bất cứ vật quí giá nào ở đời này.  Xin nhớ kỹ như thế.

3- Có được gom nhiều ý lễ trong một Thánh Lễ hay không ?

Ở các giáo xứ hay Công đoàn Việt  Nam, người ta thường nghe rao trước lễ các ý lễ ( mass intentions) của người xin. Các ý lễ này có khi nhiều đến hai ba chục  người xin.

Nói đến ý lễ – về một phương diện- là nói đến bổng lễ ( mass stipends) mà linh mục được hưởng khi dâng Thánh Lễ. Linh mục chủ tế hay đồng tế chỉ được hưởng một bổng lễ  mà thôi, còn các bổng lễ khác phải nhường cho các mục đích của Giáo quyền sở tại.( x, giáo luật số 951). Nghĩa là dủ có nhiều ý lễ được rao trong Thánh lễ, linh mục cử hành  không được phép hưởng tất cả bổng lễ của các ý lễ đó trong môt Thánh Lễ , vì mỗi Thánh Lễ, chỉ được hưởng một bổng lễ mà thôi, dù bổng lễ là ít hay nhiều. ( giáo luật số 948).

Nếu linh mục muốn hưởng hết  các bổng lễ thì phải dâng lễ cho đủ số bổng lễ muốn hưởng,. Điều này linh mục phải giải thích rõ cho giáo dân biết để người ta khỏi  hiểu lầm là linh mục đã gom các ý lễ trong một Thánh Lễ để hưởng hết mọi bổng lễ trong  các ý lễ của người  xin. Đây là vấn đề lương tâm công bằng mà mọi linh mục không thể bỏ qua để hưởng lợi theo ý riêng của mình.

Sau hết,cũng cần nó thêm là khi có người xin lễ đưa một số tiền to ( 100 hay 200 đô) mà chỉ nói là  để xin lễ chứ không nói rõ  là xin bao nhiêu lễ, thì linh mục cũng buộc phải làm lễ và hưởng bổng lễ theo qui định của giáo quyền sở tại ( tử 5 đến 10 đô cho mỗi ý lề tùy mỗi  Địa phận qui đinh, ( x. Giáo luật số 950).

Nhưng nếu người xin đưa số tiền to và nói rõ nói là  chỉ xin một lễ thì linh mục được hưởng số bổng lễ trên cách hợp lý.

4- cầu cho các thai nhi:

Các thai nhi hoàn toàn vô tội,  nên nếu chúng bị giết ( phá thai) thì tội thuộc về kẻ đã phá thai hay giúp cho việc phá thai có kết quả. Do đó không cần phải xin lễ cầu cho các thai nhi như thực hành hiện nay ở các giáo xứ hay cộng đoàn Viet Nam ở Mỹ. Có chăng,  các thai nhi chỉ  chịu hậu quả của Tội Nguyên Tổ ( Original Sin) mà thôi.

Nhưng nếu không được rửa tội để tẩy sạch tội này thì lỗi đó vẫn thuộc về cha mẹ thai nhi và kẻ đã giúp đỡ cho việc phá thai có kết quả. Thiên Chúa nhân từ không thể bắt lỗi các thai nhi vì chúng không được rửa tội. Tóm lại, không cần xin lễ cầu cho các thai nhi , và linh mục cũng không nên nhận tiền xin lễ của ai  cầu cho  mục đích này, vì không hợp lý.

5- dự tiệc cưới của hôn nhân đồng tính.

Hôn nhân đồng tính ( same sex marriage) là điều trái tự nhiên, và vô luân  ( immoral)  nên Giáo Hội không bao giờ nhìn nhận loại hôn nhân này giữa hai người nam hay hai người nữ. Vì Giáo Hội không công nhận,  nên người Công giáo cũng không được phép dự tiệc cưới của những  cặp hôn nhân đồng tính vì  bất cứ lý do nào, vì  đi tham dự như vậy là  vô tình tán thành việc kết hôn của họ, một điều trái tự nhiên và vô luân  phải  xa tránh.

Ước mong các giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi  đặt ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi