Để trung thành với Đức Tin Công giáo, nhiều ngàn tín hữu Việt Nam, thậm chí là hàng trăm ngàn, đã không ngần ngại hy sinh mạng sống của mình. Các Ngài đã lấy máu đào để tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ki-tô. 118 vị Tử Đạo Việt Nam chính là đại diện của rất nhiều ngàn tín hữu anh dũng đó. Sở dĩ các Ngài được coi là những đại diện cho hàng ngũ các vị Tử Đạo tại Việt Nam là vì, trước hết các Ngài chính là những người đã trải qua rất nhiều những cực hình ghê rợn và những nỗi khổ đau khôn xiết tả, và sau đó là vì cuộc khổ hình của các Ngài đã được ghi chép lại. Chính những gì được ghi chép lại đã tạo điều kiện cho việc nhận biết và định giá về cuộc Tử Đạo của các Ngài.
Người ta ước lượng rằng, trong suốt nhiều thế kỷ mà Giáo hội Công giáo tại Việt Nam bị bách hại, có khoảng 130.000 tín hữu đã phải hy sinh mạng sống để bảo toàn Đức Tin Ki-tô giáo. Hầu hết trong số các Ngài đều là những người không được sử sách ghi chép lại; không ai còn biết tới danh tánh của các Ngài nữa. Điều này vừa khiến cho việc tiến hành một vụ Án Phong Thánh cho các Ngài trở nên không thể, và cũng vừa khiến cho việc tưởng nhớ tới các Ngài trong các Cộng Đoàn Ki-tô hữu trở nên yếu ớt.
Một bằng chứng lịch sử đầu tiên về việc Tin Mừng đã được loan báo tại Việt Nam được tìm thấy trong bộ “Biên Niên Sử của Triều Đình An-nam”, tức Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chữ Hán: 欽定越史通鑑綱目). Đây là bộ chính sử của triều Nguyễn, được viết bằng chữ Hán, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn thảo vào khoảng năm 1856-1884. Theo bộ sử này thì vào năm 1533, vua Lê Trang Tông đã ra chỉ dụ cấm truyền bá tà đạo “Cia-te” (có lẽ là Giê-su) mà một vị Giáo Sĩ nào đó có tên là “I-Nu-Khu” (có lẽ là Ignatius) đến từ Malakka, đang thực hiện tại miền Bắc Việt Nam.
Vị Giáo Sĩ có tên là I-Nu-Khu trên là ai? Có thể Ngài là một Linh mục Dòng Đa-minh hoặc Dòng Phan-xi-cô, và rất có thể là người Bồ-đào-nha. Để đến được phủ Bắc Bộ, Ngài đã phải đi qua Ma-cao. Rồi từ Ma-cao, Ngài đã đi tàu biển để vào Việt Nam, có thể là qua ngả Ba Lạt của sông Hồng, nhưng cũng có thể là qua ngả Lạch Giang của sông Ninh Cơ. Trong thực tế thì từ năm 1550, các Tu Sĩ Dòng Đa-minh từ Bồ-đào-nha đã đến hoạt động Truyền Giáo tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long của miền Nam Việt Nam.
Việc thành lập Giáo hội Công Giáo tại Việt Nam bắt nguồn từ mùa Phục Sinh năm 1615 khi hai Linh Mục Dòng Tên là Cha Buzomi và Diego Carvalho cập bến tại Đà Nẵng. Vào ngày 19 tháng 03 năm 1627, một Linh mục Dòng Tên khác là Cha Alexander de Rhodes cũng đã đến Việt Nam từ Avignon, Pháp Quốc. Ngài được coi là sáng lập thực sự của Giáo hội tại Việt nam.
Công cuộc truyền giáo của các Linh mục Dòng Tên tại Việt nam đã gặt hái được rất nhiều thành quả, đến độ chỉ trong vòng ba năm, các Ngài đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho khoảng trên 3.500 người. Nhưng tiếc rằng, kết quả ban đầu này không kéo dài được lâu, bởi vào năm 1630, vua Lê Kính Tông đã ra chỉ dụ cấm đạo, và cuộc bách hại này đã bóp nghẹt đà phát triển của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Vào năm 1644, hầu hết các Tu Sĩ Dòng Tên đều phải rời bỏ Việt Nam. Riêng Cha Alexander de Rhodes thì luôn tìm cách ở lại. Ngài bị trục xuất tới sáu lần, nhưng cả sáu lần Ngài đều thành công trong việc tránh lệnh trục xuất. Sau cùng, vào năm 1645, Ngài đã bị bắt và bị kết án tử hình. Nhưng sau đó Ngài được Chúa Nguyễn tha mạng và trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam.
Trước khi rời Việt nam, các Linh mục Dòng Tên cũng đã kịp đào tạo một lớp Giáo lý Viên khá bài bản. Một trong những Giáo Lý Viên hăng hái và có trình độ nhất do chính Cha Alexander de Rhodes đào tạo là Thầy An-rê Phú Yên. Thầy đã bị bắt giam và rồi sau đó bị giết ngay trước mặt Cha. Thầy được coi là một trong những vị Tử Đạo tiên khởi tại Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên, việc sát hại Thầy An-rê Phú Yên đã gây không ít đau buồn cho Cha Alexander de Rhodes cũng như đã lấy đi rất nhiều hy vọng của cộng đoàn tín hữu non trẻ lúc đó.
Về phần các Tu Sĩ Dòng Tên, không lâu sau khi bị trục xuất, các Ngài đã trở lại và tiếp tục hoạt động truyền giáo tại Việt Nam. Tuy nhiên, kể từ khi Dòng của các Ngài bị bách hại trên toàn thế giới (từ 1773 tới 1788), thì các Tu Sĩ Dòng Tên đã rút khỏi Việt Nam, và mãi cho tới năm 1958 mới trở lại.
Riêng Cha Alexander de Rhodes, khi rời khỏi Việt nam, Ngài luôn luôn lo lắng cho số phận của các tín hữu tại đó, bởi họ là một cộng đoàn non trẻ trong Đức Tin nhưng lại không có Linh mục nào cai quản. Vì thế, thay vì trở lại Pháp, Ngài đã đến Rô-ma và thuyết phục những vị có trách nhiệm tại Giáo Triều biết về việc cần thiết phải có các Giáo sĩ người Việt cho người Việt. Tuy nhiên, Ngài cũng vẫn coi việc gửi các Giám mục và Linh mục từ Âu Châu tới Việt Nam là điều cần thiết không kém. Vì thế, Đức Thánh Cha Alexander VII (1655-1667) đã cử tới Việt Nam hai vị Giám Quản Tông Tòa, đó là Đức Cha François Pallu và Đức Cha Pierre Lambert de la Motte. Cả hai vị đều thuộc Hội Truyền Giáo Paris. Việc bổ nhiệm này được Đức Thánh Cha ký vào ngày 11 tháng 08 năm 1664.
Vào ngày 14 tháng 02 năm 1670, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte đã tổ chức một Công Đồng Mục Vụ đầu tiên tại Phố Hiến. Qua Công Đồng này, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte đã ấn định những thủ tục và những điều kiện cho cơ chế “Nhà Đức Chúa Trời”. Đây là Cộng đoàn Nhà xứ, gồm các Cha chánh, phó xứ, các thầy giảng, các chủng sinh, ông từ, ông bõ, và tất cả những ai phục vụ cho nhà Chúa. Với cơ chế này, mầm mống ơn gọi Linh mục và tu trì đã nhận được mảnh đất tốt để sinh hoa kết trái, hầu phục vụ cho công việc truyền giáo. Cũng trong năm 1670, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte đã thành lập một Dòng Tu đầu tiên tại Việt Nam, đó là Dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao, Bùi Chu. Trong suốt nhiều thế kỷ, các Nữ Tu Dòng Mến Thánh Giá đã chứng tỏ lòng dũng cảm đáng khâm phục cũng như hiệu suất phi thường trong công cuộc truyền giáo và hoạt động tông đồ giữa các Ki-tô hữu, đặc biệt là tại những ngôi làng xa xôi hẻo lánh.
Vào năm 1807, một Chủng Viện đã được thành lập tại Penang, Malaysia nhằm đào tạo các Chủng Sinh cho vùng Đông Nam Á. Rất nhiều các Linh mục, trong đó có cả các vị Tử Đạo của Giáo hội Việt Nam đã được đào tạo tại Chủng Viện này.
Về phần mình, Đức Cha François Pallu rất muốn lấp đầy các khoảng trống mà các Giáo Sĩ truyền giáo đã mở ra hồi đó, nên Ngài đã mời các Tu Sĩ Dòng Đa-minh đến hỗ trợ. Nhận lời mời của Đức Cha François Pallu, Cha Felipe Pardo thuộc Tỉnh Dòng Đa-minh Manila, Philippine, cùng với hai tình nguyện viên khác là Juan de Santa Cruz và Juan Arjona, đã lên đường để tới Việt Nam. Trước tiên, các Ngài tới Trung Linh, Bùi Chu, rồi sau đó, vào ngày mồng 07 tháng 07 năm 1676, các Ngài đã rời Trung Linh để đi tới Phố Hiến, Hưng Yên. Cũng vào thời điểm đó, Cha Bề Trên Tổng Quyền của Dòng Đa Minh đã ký một sắc lệnh, theo đó, công cuộc truyền giáo mới tại Bắc Việt sẽ được sáp nhập vào Tỉnh Dòng Rosario tại Manila, Philippine. Vào năm 1659, hai Phủ Doãn Tông Tòa đầu tiên của Việt Nam đã được thiết lập, một tại miền Bắc (gọi là Đàng Ngoài), và một tại miền Nam (gọi là Đàng Trong).
Ngay sau khi các nhà truyền Giáo Dòng Đa-minh tới Việt nam thì một loạt các nhà truyền giáo của các Dòng khác, chẳng hạn như Dòng Phan-xi-cô, cũng đến. Sự hiện diện đông đảo cũng như những hoạt động tông đồ không biết mệt mỏi của các nhà Truyền Giáo đã làm cho con số các Ki-tô hữu tăng lên đáng kể, đến độ Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đã phải chia Giáo Phận Đàng Ngoài ra thành hai Phủ Doãn Tông Tòa, một được gọi là Giáo Phận Tây Đàng Ngoài, và một được gọi là Giáo Phận Đông Đàng Ngoài. Hai Giáo Phận này nằm hai bên tả hữu sông Hồng.
Từ năm 1696, một loạt các cuộc bách hại đạo lại nổ ra. Tuy nhiên làn sóng bách hại này không những không ngăn cản được những hoạt động của các nhà truyền giáo, nhưng còn củng cố các hoạt động ấy, và dẫn tới việc mở rộng Ki-tô giáo.
Vào năm 1719, một cuộc bách hại khốc liệt khác lại diễn ra. Trong cuộc bách hại này, tất cả các nhà thờ, ngoại trừ nhà thờ Kẻ Sạch, đều bị san bình địa, và hầu hết các nhà Truyền Giáo của tất cả các Dòng đều bị trúc xuất. Vào năm 1721, tình hình còn trở nên căng thẳng hơn thông qua các cuộc bắt bớ: rất nhiều Ki-tô hữu bị bắt giam, và đã có những nạn nhân đầu tiên, đó hai Linh mục Dòng Tên người Châu Âu, và 9 Tu Sĩ Dòng Tên người địa phương. Trong những cuộc bách hại đẫm máu vào năm 1737, 4 Tu Sĩ khác của Dòng Tên cũng đã được phúc Tử Đạo. Và rồi, trong suốt thế kỷ XVIII và cho tới gần hết thế kỷ XIX, nhiều cuộc bách hại khác đã diễn ra tại mảnh đất hình chữ S.
Lịch sử Giáo hội Việt Nam ghi nhận rằng, tổng cộng có 53 chỉ dụ cấm đạo được ký bởi các vua nhà Lê, bởi Chúa Trịnh và bởi nhà Nguyễn. Những chỉ dụ này được đưa ra trong suốt gần ba thế kỷ, từ XVII tới XIX (cụ thể là 261 năm, từ 1625 tới 1886), không kể chỉ dụ do vua Lê Trang Tông ban bố vào năm 1533. Các cuộc cấm cách này đã đem đến cái chết cho vô vàn các tín hữu mà 118 vị Thánh Tử Đạo chính là những người đại diện. Sau đây là con số các Thánh Tử Đạo được liệt kê theo trình tự thời gian:
-1 vị dưới thời Chúa Nguyễn Thượng (1601-1648)
-2 vị dưới thời Trịnh Doanh (1740-1767);
-2 vị dưới thời Trịnh Sâm (1767-1782);
-2 vị dưới thời Cảnh Thịnh (1782-1802);
-58 vị dưới thời Minh Mạng (1820-1840);
-3 vị dưới thời Thiệu Trị (1840-1847);
-50 vị dưới thời Tự Đức (1847-1883).
Nếu sắp xếp theo quốc gia xuất xứ, thì các Vị Tử Đạo Việt Nam được xếp theo danh sách dưới đây:
–Tây-ban-nha: 11 vị, tất cả đều thuộc Dòng Đa-minh, gồm 6 Giám mục và 5 Linh mục;
–Pháp: 10 vị, tất cả đều thuộc Hội Truyền Giáo Paris, gồm 2 Giám Mục và 8 Linh mục;
–Việt nam: 97 vị, gồm 37 Linh mục (trong đó có 11 Linh mục Dòng Đa-minh), 60 Giáo dân (trong đó có 1 Chủng Sinh, 17 Giáo Lý Viên, 10 Huynh Đoàn Đa-minh, và một nữ Giáo dân).
Tại nơi hành hình, bên cạnh mỗi bản án, các chỉ dụ của nhà vua cũng còn chỉ định cả cách thức thi hành án nữa:
-75 vị bị tử hình với án trảm quyết;
-22 vị bị tử hình với án treo cổ;
-6 vị bị tử hình với án thiêu sinh;
-5 vị bị tử hình với án tùng xẻo;
-9 vị chết rũ tù vì bị tra tấn và bỏ đói.
Ngoài ra, các Ki-tô hữu còn bị phân sáp, giới Giáo sĩ giảm sút, và Ki-tô giáo bị giải tán. Các cuộc bách hại nhắm vào các tín hữu Công giáo Việt nam chỉ tạm kết thúc vào hậu bán thể kỷ XIX, khi người Pháp đô hộ hoàn toàn vương quốc này. Giữa người Pháp và vua Tự Đức đã có một hiệp định hòa bình. Trong khoản hai của hiệp định được ký kết vào ngày mồng 05 tháng 06 năm 1862, có viết như sau: “Những người thuộc hai quốc tịch Pháp và Tây-ban-nha được phép cử hành Phụng Vụ Ki-tô giáo tại vương quốc Annam; tất cả mọi công dân của vương quốc này, người nào đón nhận Ki-tô giáo hay muốn theo Ki-tô giáo, đều có thể thực hiện việc đó một cách tự do mà không có bất cứ sự cản trở hay phân biệt nào; nhưng những ai không muốn trở thành Ki-tô hữu thì không bị ép buộc phải trở thành Ki-tô hữu.”
Hiệp ước nêu trên đã tạm thời chấm dứt các cuộc bách hại nhắm vào các Ki-tô hữu tại Việt Nam. Giáo hội tại đây được trải qua một giai đoạn tương đối tự do. Giai đoạn này kéo dài khoảng 90 năm. Nhưng rồi, tại Bắc Việt, từ năm 1954, sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, và tại Nam Việt, từ năm 1975, sau khi người Cộng Sản làm chủ toàn bộ Việt Nam, các Ki-tô hữu lại phải trải qua một giai đoạn mới với rất nhiều những bách hại và trấn áp. Rất nhiều các tín hữu, trong đó có cả các Linh mục và Tu sĩ, thậm chí cả Giám mục, như trường hợp của Đức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận, đã phải trải qua nhiều năm tù đầy. Có nhiều vị còn phải bỏ mạng trong tù.
Tình hình của Giáo hội Công Giáo Việt nam trong thời gian gần đây đã được cải thiện đôi chút qua việc các các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam nhiều lần viếng thăm Vatican. Khi tôi đang ngồi viết bài này (tối ngày 23.11.2016 theo giời Việt Nam) thì cũng là lúc chủ tịch Trần Đại Quang của nhà nước Cộng Sản Việt Nam được Đức Thánh Cha Pha-xi-cô tiếp đón tại Vatican. Và khi tôi viết tới đây thì cũng là lúc cuộc gặp gỡ nêu trên giữa hai nhà lãnh đạo đã kết thúc. Chưa thấy bộ ngoại giao Việt Nam hay Tòa Thánh Vatican công bố gì về cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, dù có vô cùng lạc quan đi nữa thì các tín hữu Công giáo Việt nam cũng không đặt nhiều hy vọng vào cuộc gặp gỡ vừa nêu. Bởi theo kinh nghiệm, sau mỗi cuộc gặp gỡ trước đây giữa Đức Thánh Cha và các nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, thì tình hình của Giáo hội tại Việt Nam cũng không sáng sủa hơn bao nhiêu, và đôi lúc còn trở nên ngột ngạt hơn là đàng khác.
117 Thánh Tử Đạo Việt Nam và một vị Chân Phúc đã được tôn phong lên bậc Chân Phúc trong 5 lần khác nhau: 64 vị được phong vào năm 1900 bởi Đức Thánh Cha Lê-ô XIII; 8 vị được phong vào năm 1906 bởi Đức Thánh Cha Pi-ô X; 20 vị được phong vào năm 1909 cũng bởi Đức Thánh Cha Pi-ô X; 25 vị được phong vào năm 1951 bởi Đức Thánh Cha Pi-ô XII; và Chân Phúc An-rê Phú Yên được phong vào ngày mồng 05 tháng 03 năm 2000 bởi Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II.
Vào ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã tôn phong 117 vị Chân Phúc Tử Đạo, Việt Nam, lên bậc Hiển Thánh.
Giáo hội Công giáo kính nhớ Thánh An-rê Dũng Lạc và các bạn Tử Đạo vào ngày 24 tháng 11 với bậc Lễ Nhớ buộc, tức Lễ bậc III. Ngày 24 tháng 11 được chọn để kính nhớ các Ngài cốt là để kỷ niệm Ngày Thiết Lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, vì vào ngày này năm 1960, với Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, Đức Thánh Cha Gio-an XIII đã chính thức thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam với ba Giáo Tỉnh: Hà Nội, Huế và Sài Gòn.
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist (Dựa theo IMAGO MUNDI)
Để lại một phản hồi
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.