Từ vấn đề xã hội “chọn lọc gen” để đào tạo tinh hoa, bài viết sau đây gợi lên cho người Kitô hữu và nhiều người khác nhu cầu tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này theo giáo huấn của Giáo hội, cách riêng của Đức Thánh cha Lêô XIV trong Tông huấn Dilexi te.Trong những ngày vừa qua, nơi một vài diễn đàn xã hội, nổi lên cuộc tranh luận giữa nhiều nhà chuyên môn trong các lãnh vực, nhà khoa học và nhà nghiên cứu xã hội, về vấn đề “chọn lọc gen” để đào tạo tinh hoa. Xem ra đó là chủ đề nhỏ bé so với những quan tâm xã hội vào mỗi dịp Giáng sinh và đầu năm mới. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề rất sâu sắc, nó đụng chạm đến điều thiết yếu của mọi vấn đề xã hội: bản chất con người. Giữa những tầm nhìn mang tính chiến lược cũng nổi lên những băn khoăn mang tính trách nhiệm đạo đức rằng liệu “tư duy ‘chọn gen để đào tạo tinh hoa’ vô tình trượt sang logic của chủ nghĩa ưu sinh hiện đại, nơi con người bị đánh giá, phân loại và đầu tư khác nhau dựa trên những giả định sinh học chưa được kiểm chứng”. Những cuộc đối thoại xã hội như vậy là rất cần thiết và gợi đến nhiều suy tư hơn về trách nhiệm cá nhân cũng như tập thể.
Bài viết sau không đi vào tính chuyên môn của cuộc đối thoại xã hội trên, nhưng tính tế nhị và cốt lõi của nó gợi lên cho người Kitô hữu và nhiều người khác nhu cầu tìm hiểu kỹ hơn về giáo huấn của Giáo hội, cách riêng của Đức Thánh cha Lêô XIV trong một giáo huấn có thể được coi là tuyên ngôn quan trọng đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của ngài: Dilexi te.
Tông huấn Dilexi te – Ta đã yêu con, là một văn kiện ngắn tiếp nối những suy tư mục vụ của Đức Thánh cha Phanxicô trong Dilexit nos, trực tiếp trình bày về “tình yêu dành cho người nghèo” qua cách tiếp cận được đan dệt khéo léo và sâu sắc giữa niềm xác tín Kitô học, Giáo hội học và nhân học Kitô giáo.
Khi gợi về tính bó buộc của những thực hành bác ái trong Giáo hội hướng đến “nhiều khuôn mặt khác nhau của người nghèo và của sự nghèo khó” trong xã hội qua dòng lịch sử, Đức Thánh cha Lêô dường như ẩn ý về một tuyên ngôn được Giáo hội rao giảng và thực hành như một phần của sứ điệp Tin mừng rằng: “Những việc làm âm thầm của họ [việc bác ái của các tu sĩ] là men cho một nền văn minh mới, nơi mà những người nghèo không bị xem là vấn đề cần giải quyết nhưng là những anh chị em cần được chào đón” (s. 56). Sự ưu tiên ấy không có nghĩa là loại trừ hay thiên vị, nó diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa hướng đến sự nghèo nàn và yếu đuối của toàn thể nhân loại (s. 16). Điều đó gợi đến hai suy tư liên quan đến bản chất con người:
Trước hết, phẩm giá con người, của mỗi người, từ khi thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, là thánh thiêng, cá biệt, và là hình ảnh Thiên Chúa. Điều đó chỉ có thể được nhìn nhận trong tương quan của con người với Thiên Chúa; nghĩa là con người chỉ nhận ra sự cao quí và thánh thiêng của mình cũng như của người khác nơi nguồn cội thánh thiêng là Thiên Chúa. Từ khởi nguồn nguyên thủy đó, con người là đối tượng được Thiên Chúa tạo dựng, mong muốn và yêu thương. Trong Đức Giêsu Kitô, con người mãi mãi được bảo đảm rằng “Thiên Chúa ở cùng” họ, và được mời gọi bước vào hành trình hoàn thiện cùng đích đời mình bằng một sự đáp trả tự do và chân thật. Như vậy, “với tư cách là một ‘thực thể cá nhân’, con người sở hữu phẩm giá hữu thể học (ontological dignity). Nhận được sự hiện hữu từ Thiên Chúa, con người là chủ thể – tức là chúng thực thi sự hiện hữu của mình một cách tự chủ”; Phẩm giá đó là điều không thể bị xóa nhòa, nhượng bộ, và vẫn có giá trị vượt trên mọi hoàn cảnh mà con người có thể gặp phải, mọi bậc thang giá trị mà con người có thể qui ước. Chính vì niềm xác tín này mà Giáo hội coi việc đồng hành với người nghèo, mọi hình thức của nghèo đói, là một phần quan trọng trong sứ vụ của mình được lãnh nhận từ Đấng Cứu Thế.
Thứ hai, theo thần học về tạo dựng, vì con người nhận ra mình cùng với người khác, và chỉ tìm thấy niềm vui khi đón nhận người khác (St 2,23), nên theo Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, con người trở thành hình ảnh của Chúa không phải như một cá thể cô độc mà là trong khoảnh khắc hiệp thông, nhận ra “người khác” cần cho mình. Tuy nhiên, thật là một khiếm khuyết trầm trọng nếu đề cao tính cộng đoàn và liên đới như là một phần thuộc bản tính của con người mà lại không nhận ra điều quan trọng hơn đó là chính Thiên Chúa đã tự gắn mình vào mối tương quan đó. Theo Đức Thánh cha Lêô, “từ thuở ban sơ”, Thiên Chúa không dừng lại ở việc yêu thương “in hình ảnh” mình vào con người mà Người còn triển khai kế hoạch yêu thương bằng cách tự gắn mình vào lịch sử con người qua hành động hạ mình và đến giữa nhân loại. Suy gẫm về điều đó trong Kinh thánh, Abraham J. Heschel (1907–1972) triết gia cũng là thần học gia đã phải thốt lên rằng điều làm ông sửng sốt nhất nơi Thiên Chúa của Kinh thánh là: Người không thờ ơ trước số phận con người, nhưng là Thiên Chúa sống động, có trái tim, “gắn chặt mình” với con người; Người quan tâm đến từng người cụ thể, nhất là người nghèo, góa phụ, trẻ mồ côi, ngoại kiều. Chính vì vậy, Đức Thánh Cha lặp lại rằng: Vì là Nhiệm thể Chúa Kitô, “Giáo hội [luôn] trình bày chính mình như là, và như muốn trở thành: Giáo hội của mọi người và đặc biệt là Giáo hội của người nghèo.” Xác tín đó không chỉ giới hạn trong mọi thành phần Giáo hội, nhưng nó cũng phải được nhìn nhận và thực hành trong toàn thể xã hội nói chung và mỗi cá nhân cách riêng; nó cũng không phải chỉ là sự gợi hứng cho những thực hành bác ái trong hoàn cảnh và những con người của một gia đoạn lịch sử nào, nhưng là một thách đố và lời mời gọi luôn có tính mới mẻ, hôm nay và mãi mãi cho mọi người và toàn xã hội: sống với nhau trong liên đới và trách nhiệm.
Đọc Dilexi te trong bối cảnh của con người ngày nay quả thực chúng ta có thể nhận ra rằng thông điệp không phải là những suy tư thần học quá phức tạp chỉ dành cho một vài số đối tượng nào đó, nhưng đích thực là lời mời gói dấn thân được gửi đến mỗi người trong cộng đồng xã hội. Dilexi te vang lên như lời mời gọi luôn luôn mới mẻ và mang giá trị bền vững là con người phải được đón nhận và đối xử như nhau. Chỉ trong tình yêu và liên đới, nhân loại mới thực sự trở nên nhân bản và tốt đẹp hơn.
Lm. Giuse Đỗ Mạnh Thịnh