Ngày 4 tháng 12, chúng ta mừng kính Thánh Gioan Đamas, còn được gọi là Thánh Gioan Đamascênô. Ngài là một linh mục và tu sĩ, ngài đã trở thành Tiến sĩ Hội thánh. Ngài cũng là vị Giáo phụ cuối cùng. Dưới đây là bảy điều cần biết và chia sẻ về Thánh Gioan Đamas.
1. Tại sao ngài là vị Giáo phụ cuối cùng?
Chúng ta cần chia lịch sử thành các thời kỳ khác nhau. Thời đại của các Giáo phụ không giống với thời đại trước đó hay thời đại sau đó.
Nhưng để làm được điều này, chúng ta phải chia lịch sử thành những thời điểm có phần tùy ý.
Do đó, người ta thường cho rằng thời đại của các Giáo phụ kết thúc ở phương Đông với cuộc đời của Thánh Gioan Đamas, người qua đời vào khoảng năm 749 SCN.
(Ở phương Tây, thời đại của các Giáo phụ thường được cho là kết thúc với Thánh Isiđôrô Sevilla, người qua đời vào năm 636 SCN.)
2. Thánh Gioan Đamas là ai?
Như tên gọi của ngài, ngài sinh ra tại thành phố Đamas, thuộc quốc gia Syria ngày nay, nằm ngay phía bắc Israel.
Đây cũng chính là thành phố mà Thánh Phaolô đã đến khi ngài trải qua cuộc trở lại trên “Con đường Đamas”. (Thực tế, theo tiêu chuẩn hiện đại, nó khá gần; Đamas cách Giêrusalem khoảng 220km về phía bắc.)
Thánh Gioan Đamas sinh năm 675 hoặc 676 SCN, và sống đến khoảng 75 tuổi, qua đời vào khoảng năm 749 SCN. Ngài đã dành phần lớn cuộc đời mình tại tu viện Mar Saba gần Giêrusalem.
Ngài còn được biết đến với biệt danh tiếng Hy Lạp “Chrysorrhoas,” có nghĩa là “dòng chảy vàng” hoặc “rót vàng,” cho thấy chất lượng các tác phẩm của ngài.
3. Tại sao ngài lại quan trọng?
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích: “Trên hết, ngài là người chứng kiến sự chuyển giao từ nền văn hóa Kitô giáo Hy Lạp và Syria vốn được chia sẻ bởi phần phía Đông của Đế chế Byzantine sang nền văn hóa Hồi giáo, vốn lan rộng thông qua các cuộc chinh phạt quân sự trên lãnh thổ thường được gọi là Trung Đông hoặc Cận Đông.”
4. Điều gì đã xảy ra trong cuộc đời thơ ấu của ngài?
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích: “Sinh ra trong một gia đình Kitô giáo giàu có, từ nhỏ Thánh Gioan đã đảm nhận vai trò, có lẽ đã được cha ngài đảm nhiệm, là Thủ quỹ của Vương quốc Hồi giáo.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó, khi không hài lòng với cuộc sống trong cung đình, ngài quyết định sống đời tu sĩ và gia nhập tu viện Mar Saba, gần Giêrusalem. Khoảng năm 700.
Ngài không bao giờ rời khỏi tu viện nữa, mà dành toàn bộ sức lực cho việc khổ tu và sáng tác văn chương, nhưng không hề bỏ bê một số hoạt động mục vụ, điều này được thể hiện qua vô số bài giảng của ngài.”
5) Cuộc tranh luận thần học nào đã làm nên tầm quan trọng của ngài?
Đó là cuộc tranh luận vào thế kỷ VIII về việc có nên tôn kính ảnh tượng hay không – điều được gọi là “cuộc tranh luận về bài trừ ảnh tượng.”
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích: “Ở phương Đông, những tác phẩm được nhớ đến nhiều nhất của ngài là ba bài Diễn thuyết chống lại những kẻ phỉ báng Ảnh tượng Thánh, vốn đã bị Công đồng Hieria, một công đồng ủng hộ việc bài trừ ảnh tượng, lên án sau khi ngài qua đời (754).
Tuy nhiên, những bài diễn thuyết này cũng là nền tảng cơ bản cho việc phục hồi và tuyên thánh cho ngài từ phía các Giáo phụ Chính thống giáo được triệu tập đến Công đồng Nicaea II (787), Công đồng chung thứ VII.
Trong những bản văn này, có thể thấy những nỗ lực thần học quan trọng đầu tiên nhằm hợp thức hóa việc tôn kính ảnh tượng thánh, liên hệ chúng với mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.”
6) Thánh Gioan Đamascênô đã đóng góp như thế nào cho cuộc tranh luận này?
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích: “Thánh Gioan Đamascênô cũng là một trong những người đầu tiên phân biệt, trong việc thờ kính, cả công khai lẫn riêng tư, của các Kitô hữu, giữa việc thờ phượng (latreia) và việc tôn kính (proskynesis):
Việc đầu tiên chỉ có thể được dâng lên Thiên Chúa, trên hết là thiêng liêng, mặt khác, việc thứ hai có thể sử dụng một ảnh tượng để hướng đến đấng mà ảnh tượng đó đại diện.
Rõ ràng, đấng đó không thể được đồng nhất với chất liệu làm nên biểu tượng.
Sự phân biệt này ngay lập tức được coi là rất quan trọng trong việc tìm kiếm câu trả lời theo thuật ngữ Kitô giáo cho những người vốn xem lệnh cấm nghiêm ngặt trong Cựu Ước đối với việc sử dụng ảnh tượng thánh là phổ quát và bất biến.
Đây cũng là một vấn đề gây tranh cãi lớn trong thế giới Hồi giáo, nơi chấp nhận truyền thống Do Thái giáo về việc loại trừ hoàn toàn các ảnh tượng nhằm mục đích thờ kính.
Mặt khác, những người Kitô hữu, trong bối cảnh như thế, đã tranh luận về vấn đề này và tìm ra lý do chính đáng cho việc tôn kính ảnh tượng.”
7. Thánh Gioan Đamascênô đã viết gì về điều này?
Như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã giải thích, Thánh Gioan Đamascênô đã viết:
“Trong những thời đại trước kia, Thiên Chúa không được thể hiện bằng ảnh tượng vì Người là Hữu Thể vô hình.”
“Nhưng vì giờ đây Thiên Chúa đã được nhìn thấy trong xác thịt và sống giữa loài người, nên tôi diễn tả phần hữu hình của Thiên Chúa.”
“Tôi không tôn kính vật chất, nhưng là Đấng Tạo Hóa của vật chất, Đấng đã trở nên vật chất vì tôi và đã hạ mình sống trong vật chất và mang lại ơn cứu độ cho tôi thông qua vật chất.”
“Vì vậy, tôi sẽ không ngừng tôn kính vật chất mà nhờ đó tôi được cứu độ.”
“Nhưng tôi không tôn kính nó một cách tuyệt đối như Thiên Chúa! Làm sao điều từ hư vô đã được ban cho sự hiện hữu lại có thể là Thiên Chúa? …”
“Nhưng tôi cũng tôn kính và trân trọng tất cả những gì còn lại của vật chất đã mang lại cho tôi ơn cứu độ, vì nó tràn đầy năng lượng và ân sủng thánh thiện.”
“Gỗ thập giá, được chúc tụng ba lần, chẳng phải là vật chất sao?… Vết mực và sách Tin mừng chí thánh, chẳng phải là vật chất sao? Bàn thờ cứu chuộc phân phát Bánh Sự Sống, chẳng phải là vật chất sao?… Và, trên hết, chẳng phải là thịt và máu Chúa chúng ta cũng là vật chất sao?
“Hoặc chúng ta phải xóa bỏ bản chất thánh thiêng của tất cả những điều này, hoặc chúng ta phải nhường chỗ cho truyền thống của Giáo hội về việc tôn kính ảnh tượng của Thiên Chúa và việc tôn kính các bạn hữu của Người, những người được thánh hóa bởi danh xưng của mình, và vì lý do này được sở hữu bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần.
“Vậy, đừng xúc phạm đến vật chất: Nó không đáng khinh, vì không có gì Thiên Chúa tạo ra là đáng khinh.” (cf. “Contra Imaginum Calumniatores,” I, 16, biên tập bởi Kotter, trang 89-90).
Tác giả: Jimmy Akin
Lm. Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên chuyển ngữ từ ncregister.com (04/12/2024)
Nguồn: giaophanvinhlong.net