Hội thánh hiệp hành là Hội thánh mang tính chất hiệp thông, sứ vụ và tham gia. Cùng bước đi với toàn thể Hội thánh hiệp hành, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã định hướng cho chương trình mục vụ năm nay (2025) với điểm nhấn là sứ vụ “cùng nhau loan báo Tin mừng”. Và mới đây (tháng 10/2024), “Văn kiện Chung kết của Đại hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục”, trong phần cuối, cũng đã nhấn mạnh đến vấn đề cần đào luyện “một dân gồm những môn đệ truyền giáo”. Bài viết sau đây đưa ra một vài suy nghĩ về sứ vụ loan báo Tin Mừng tại Việt Nam.
Rõ ràng là tự sức mình, con người không thể thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, nên Chúa Giêsu đã dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2).
Đất nước Việt Nam là một cách đồng truyền giáo bao la bát ngát, tỷ lệ người Công giáo cả nước chỉ là 6,9%. 6,9% người Công giáo nghĩa là cứ 100 người chúng ta gặp thì coi như chỉ có 7 người Công giáo và có đến 93 người không biết Chúa. Rõ ràng còn rất nhiều người chưa biết Chúa.
Vậy chúng ta đã làm gì để loan báo Tin Mừng?
Khi đến các giáo xứ, các nhà dòng, Đức tổng Giuse Nguyễn Năng thường đặt câu hỏi đó: anh chị em đã làm gì để loan báo Tin Mừng? Ngài cho biết các giáo xứ, các hội dòng… thường tập hợp các số liệu đã làm: nào là xây dựng những mái ấm, các lớp học tình thương, thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, các cuộc quyên góp cứu trợ bão lụt, thiên tai…; rồi cá nhân mỗi người đã sống tốt, sống vui vẻ, yêu thương bác ái với mọi người nơi mình đang sống…
Chúng ta đã sống gương mẫu. Tốt lắm! Chúng ta đã làm rất nhiều trong hoạt động bác ái từ thiện. Tốt lắm! Thế nhưng tại sao số người nhận biết Chúa không thấy tăng lên?
Hạt giống Tin Mừng lần đầu tiên được gieo vãi trên đất Việt cách nay gần 500 năm. Đọc lại lịch sử, chúng ta thấy, các vị thừa sai nước ngoài thuở đầu chân ướt chân ráo đến Việt Nam, chưa rành tiếng Việt, nhưng các ngài đã truyền trao đức tin cho ông bà tổ tiên chúng ta một cách hiệu quả… Thật vậy, chỉ khoảng vài trăm năm, đã có hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn tín hữu tin yêu Chúa đến độ dám đổ máu mình để làm chứng cho Chúa… mà nổi bật là 117 vị thánh Tử đạo tại Việt Nam. Như thế, trong ba, bốn trăm năm đầu, với bao khó khăn, cấm cách, bắt bớ…, các vị thừa sai đã đặt một nền móng vững chắc cho Giáo hội Việt Nam với con số tín hữu, bắt đầu từ 0 lên đến 6 hoặc 7%.
Cả một di sản to lớn đã được các vị thừa sai để lại cho Giáo hội Việt Nam, mà, nay nhìn lại, chỉ kể từ năm 1960, khi Giáo hội Việt Nam có hàng giáo phẩm, nghĩa là có các chủ chăn hoàn toàn là người Việt, đã 65 năm trôi qua mà tỉ lệ người Công giáo không hề tăng, vẫn dừng lại ở con số chưa đến 7%. Tại sao việc loan báo Tin Mừng dậm chân tại chỗ như vậy? Trong Tông huấn Hậu Thượng hội đồng Ecclesia in Asia 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã minh định: “không thể có Phúc Âm hóa thực sự nếu không minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa” (số 19). Đức tổng Giuse cũng có cái nhìn như vậy khi cho rằng, cái lỗi, cái thiếu sót của chúng ta là ở chỗ: Chúng ta chỉ lo làm những công việc bác ái từ thiện, coi đó đã là chu toàn trách nhiệm loan báo Tin Mừng rồi, không hề quan tâm đến việc “minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Đúng, để loan báo Tin Mừng, chúng ta không thể bỏ qua khía cạnh nâng cao đời sống người nghèo, cứu giúp những người cơ nhỡ lầm than, nâng đỡ những người thấp bé trong xã hội, hỗ trợ những ai bên lề xã hội… cũng như chính bản thân mình phải sống tốt… Nhưng như thế chưa đủ! Bác ái từ thiện và sống tốt chỉ là bước khởi đầu tiếp cận và chuẩn bị cho những người chưa biết Chúa đón nhận Tin Mừng. Cần “minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa” nữa kìa!
Xin được so sánh thế này: Có anh nông dân kia ngày đêm vất vả, chăm chỉ cày bừa, dọn đất, tưới bón… nhưng vẫn không đủ gạo ăn… Hóa ra đất đã sẵn sàng, nhưng anh lại chẳng gieo hạt… Khâu cuối cùng quan trọng nhất là gieo hạt thì anh lại không làm! Anh nghĩ chỉ cần cày bừa, dọn đất, tưới bón… là đủ, lúa sẽ tự mọc lên… Anh đã phí công phí sức, vất vả mà chẳng được gì.
Một so sánh khác: có anh chàng trai trẻ kia tốt tính lắm, ai cũng thương mến. Anh đã để ý đến một cô gái. Gia đình cô cũng quý anh và cô kia cũng có cảm tình với anh. Anh luôn quan tâm giúp đỡ cô. Thế rồi, hai, ba năm trôi qua… Và đùng một cái cô gái đi lấy chồng, nhưng không phải là lấy anh! Hỏi ra thì mới vỡ lẽ, hóa ra, anh làm đủ mọi điều tốt đẹp nhưng chỉ thiếu… lời tỏ tình. Cô đã đi lấy chồng! Anh tiếc mà chính cô cũng tiếc, như lời bài ca dao đã đi vào lòng người: “Ba đồng một mớ trầu cay, sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?” Bài ca dao được Phạm Duy phổ nhạc, với giai điệu thật day dứt, lặp đi lặp lại: “sao anh không hỏi, sao anh không hỏi, sao anh không hỏi những ngày em còn không???”
Tại sao chúng ta không nói về Chúa, không kể những câu chuyện Tin Mừng cho anh chị em lương dân? Cần phải “minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Khi dạy người Do Thái phải tuân giữ các quy định của luật Môsê về bổn phận tôn giáo và xã hội, Chúa Giêsu bảo: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23), nghĩa là không được “bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”. Lời Chúa Giêsu căn dặn trên cũng đúng trong trường hợp loan báo Tin Mừng: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”. Cần phải sống chứng nhân, gia tăng việc yêu thương bác ái, nhưng cũng cần phải “minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Hãy đọc sách Công vụ Tông Đồ, chúng ta sẽ thấy đi tới đâu các Tông đồ cũng tìm cách rao giảng về danh Chúa Giêsu Kitô ở đó. Ngay những trang đầu tiên đã ghi lại sự kiện: sau khi đón nhận Thánh Thần, giữa sự sửng sốt, thán phục chen lẫn sự chế nhạo từ nơi dân chúng, Phêrô đã mạnh dạn nói với họ về Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến, bị họ giết chết và đã sống lại…; kết quả của bài giảng đầu tiên là khoảng ba ngàn người chịu phép rửa. Sau đó ở Cửa Đẹp Đền thờ, Phêrô cũng lại nói về Chúa Giêsu Kitô cho anh què ăn xin: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Dân chúng thấy sự lạ, chạy ùa tới, Phêrô không bỏ lỡ cơ hội rao giảng về Chúa Giêsu Kitô cho dân (x. Cv 3,11-26). Và vì thế, Phêrô và Gioan bị bắt giam, trước Thượng Hội Đồng Do Thái, hai ông lại nói về Chúa Giêsu Kitô… (x. Cv 4,1-22).
Người Công giáo chúng ta thường có tâm lý này: chúng ta hay mủi lòng trước người nghèo khó, nếu không giúp đỡ họ thì thấy áy náy bất an… nhưng trước các anh chị em chưa biết Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy xót thương gì nhiều. Tại sao? Hỏi như thế, để nhận ra rằng hoá ra trước nay chúng ta chỉ áp dụng dụ ngôn ở Mt 25 về Cuộc Phán Xét cho người nghèo đói vật chất, mà không áp dụng cho anh chị em lương dân, những người nghèo đói Chúa.
Chúng ta không nhận ra rằng biết bao người đang phải sống khổ đau trong bất hòa, tranh chấp, không có lẽ sống… chỉ vì họ không biết Chúa. Vợ chồng người ta sao dễ cãi cọ, đánh nhau và ly dị thế nhỉ? Chỉ vì những va quẹt không đáng gì trên đường, sao người ta dễ nóng nảy, sẵn sàng mang hung khí đập, phang, chém người khác thế nhỉ? Thế rồi phải tù tội… Còn biết bao những câu chuyện tương tự như thế… Nếu biết Chúa họ có khổ như vậy hay không?
Hoá ra sống Bí tích Thánh Thể, hiểu cho đúng, không chỉ là chạm vào những con người đói, khát, bơ vơ, trần truồng, đau yếu về thể lý… mà hơn thế nữa là đến với những con người đang đói khát Chúa; bơ vơ, lạnh lẽo vì không có Chúa; yếu đau vì thiếu sức sống của Chúa… Họ là những người nghèo nhất trong những người nghèo… Họ cần Chúa. Họ cần chúng ta mang Chúa đến cho họ…
Ở Cửa Đẹp Đền thờ, khi anh què xin Phêrô và Gioan bố thí, Phêrô nhìn anh và nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Điều mà Phêrô mang lại cho anh còn quý hơn vàng bạc và mọi kho báu ở trần gian này! Chúng ta thường làm ngược lại với thánh Phêrô. Chúng ta thường làm như thể nói với người nghèo: “Đức Kitô thì chúng tôi không có, nhưng chúng tôi có quần áo, mì gói, gạo, mắm muối… chúng tôi mang lại cho anh đây” (!)
Chính vì không cảm nhận được sự khốn khổ của những người chưa biết Chúa, nên chúng ta không có nhiệt tâm trong việc loan báo Tin Mừng. Mà sâu xa hơn, chính vì không đồng cảm với Chúa Giêsu nên chúng ta chưa hề có ý định tìm mọi dịp thuận lợi, để chủ động nói về Chúa cho anh chị em lương dân. Đã có lần Chúa Giêsu nói với những người muốn giữ Chúa ở lại với họ thế này: “Tôi còn phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43). Chúng ta có cảm thấy tấm lòng khao khát của Chúa, muốn cứu độ mọi người, muốn cho họ biết đến Tin Mừng hay không?
Thánh Phanxicô Xaviê rao giảng Tin Mừng ở Trung Quốc. Ngài bận rộn lo giảng dạy cho những người chưa biết Chúa, chăm sóc các tân tòng…, các thiếu nhi bám lấy ngài xin ngài dạy cho chúng biết làm dấu thánh giá, biết đọc kinh… nhiều lúc ngài không có thời giờ để ăn uống, ngủ nghỉ. Ngài đã viết thư cho thánh Inhaxiô bạn ngài: “Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học ở châu Âu […], để kêu gào khắp nơi như kẻ mất trí nhằm thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: Tiếc thay, chỉ vì lỗi các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải xuống hoả ngục. Ước chi họ miệt mài với văn chương chữ nghĩa thế nào thì họ cũng miệt mài với công việc tông đồ này như vậy, để có thể trả lẽ với Thiên Chúa về học thuyết của họ cũng như các nén bạc đã được trao phó cho họ”.
Chúng ta thường xưng tội thiếu lòng bác ái thương xót người nghèo, nhưng có bao giờ chúng ta xưng tội vì đã bỏ qua những dịp kể cho anh chị em nghe biết về Chúa hay không? Hãy nhớ, loan báo Tin Mừng không phải là việc tốt được khuyên nên làm, và nếu không làm thì cũng không sao. Không! Không làm thì đó là tội!
Có linh mục đã thừa nhận rằng mãi đến gần 25 năm tuổi đời linh mục, ngài mới nhận ra được tội đó. Là một linh mục, ngài đã giảng giải Lời Chúa nhiều, đã rửa tội nhiều, đã giải đáp thắc mắc về Chúa cho nhiều người… nhưng đã chưa trực tiếp đưa ai về với Chúa, và chưa hề có ý định tìm mọi dịp thuận lợi, để chủ động nói về Chúa cho bất kỳ ai, cả các anh chị em lương dân lẫn người có đạo… Một linh mục mà còn như thế, thì anh chị em giáo dân thì sẽ như thế nào trong việc loan báo Tin Mừng?
Xưa kia các linh mục thường bảo nhau: mục tiêu đời linh mục là phải xây được một ngôi nhà thờ, viết một cuốn sách và bảo trợ được một ơn gọi làm linh mục… Không! Không! Đó không phải là nhiệm vụ chính của linh mục. Trước khi về trời, Chúa Giêsu truyền cho Hội Thánh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Sự thành toàn của cuộc đời linh mục không phải là đạt cho được những thành tựu to lớn bên ngoài, mà là hết sức chu toàn sứ vụ Chúa đã trao phó.
Ước gì các linh mục, nhất là các linh mục trẻ khi ra trường, có khát khao đưa người ngoại giáo về với Chúa. Mỗi linh mục đưa năm người về với Chúa và mỗi người Kitô hữu đưa một người về với Chúa… Con số năm, con số một đó không phải là con số chỉ tiêu phải phấn đấu đạt được, nhưng là con số của lòng khao khát, ước ao… Được thế, chắc hẳn bộ mặt của Hội Thánh Việt Nam sẽ khởi sắc, sẽ khác chứ không dậm chân tại chỗ như ngày nay…
Mặc dù có những thiếu sót trong ý thức loan báo Tin Mừng như đã nói, nhưng giáo dân Việt Nam có một đặc điểm nổi trội đó là: sự gắn bó với xứ đạo, sự nhiệt tình tham gia vào công việc chung của giáo xứ, sự rộng rãi quảng đại đóng góp cho việc xây dựng nhà Chúa… Mọi người, già trẻ lớn bé đều nhiệt tình tham gia cộng tác vào công việc chung, trong hội đồng mục vụ, trong các đoàn thể, ca đoàn, thiếu nhi Thánh thể, Caritas… lễ sinh phục vụ bàn thờ, các bà làm sạch đẹp nhà Chúa… Lòng nhiệt thành quảng đại gắn bó với giáo xứ tốt lắm! Thiên Chúa chúc lành cho sự nhiệt tình quảng đại này. Nhưng hãy nhớ, đây chưa phải là “minh nhiên rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa”. Bổn phận loan báo Tin Mừng mời gọi chúng ta vượt khỏi khuôn khổ của giáo xứ, với những mục vụ gói gọn trong giáo xứ, để mở rộng hoạt động, nhìn ra những anh chị em lương dân xung quanh, còn đau khổ vì chưa biết Chúa.
Loan báo Tin Mừng trước hết là cho những người hàng xóm, láng giềng, cho bạn bè quen biết gần gũi với chúng ta, thậm chí có thể cho chính những người trong gia đình, trong họ hàng dòng tộc của chúng ta… và kể cả cho chính những anh em đồng đạo với chúng ta. Tại sao lại nói như vậy? Họ đều là những người biết Chúa rồi mà! Thậm chí có khi họ còn biết Chúa rành hơn cả tôi nữa! Họ cũng cần phải được loan báo Tin Mừng hay sao?
Đúng là sứ vụ Ad Gentes nhằm loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa. Nhưng việc loan báo Tin Mừng không giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngay lúc này tôi phải loan báo Tin Mừng, ngay nơi này tôi phải loan báo Tin Mừng. Để có thể Ad Gentes, tôi phải loan báo Tin Mừng ngay lúc này và ngay nơi đây cho những người gần tôi nhất, chứ không đợi và không phải chỉ khi nào tôi đến nơi truyền giáo, khi gặp người ngoại đạo tôi mới bắt đầu loan báo Tin Mừng. Ngay lúc này và ngay nơi đây tôi phải loan báo Tin Mừng.
Hãy cứ mạnh dạn kể về Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ, quen biết… Qua đó đức tin chúng ta sẽ trưởng thành, lòng mến của chúng ta sẽ thêm nồng nàn, và niềm cậy trông hy vọng của chúng ta càng thêm lớn mạnh.
Thật vậy có nói về Chúa, chúng ta mới thấy rằng chúng ta biết quá ít về Chúa, để rồi từ đó chúng ta được thôi thúc chủ động tìm đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa, cầu nguyện với Lời Chúa và tập sống Lời Chúa, đồng thời nỗ lực học giáo lý để biết về Chúa.
Khi nói về Chúa, chúng ta sẽ dần dần nhận ra rằng có những người chối từ, khó chịu, không muốn nghe nói về Chúa. Tại sao? Bởi vì họ cảm thấy bị áp đặt, bị bắt buộc phải nghe, bị chiêu dụ vào đạo. Điều đó nghĩa là, chúng ta đã loan báo Tin Mừng không đúng cách. Không! Loan báo Tin Mừng không phải là chiêu mộ, dụ dỗ, ép buộc người ta vào đạo.
Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên dạy rằng: trong việc rao giảng Tin Mừng, “người Kitô hữu phải như là những người muốn chia sẻ niềm vui của mình, chỉ ra một chân trời của cái đẹp, và mời gọi mọi người tới dự một bữa tiệc ngon. Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng sức thu hút” (NVTM 14).
Hằng ngày, qua email, qua điện thoại, chúng ta thường nhận được những tin nhắn, những hình ảnh, những mẩu chuyện hay, có ý nghĩa…, chúng ta chẳng ngần ngại chuyển tiếp cho người khác. Chúng ta thấy đó là chuyện hết sức bình thường. Chẳng hạn: Này! Ở cửa hàng A, đang có đợt khuyến mãi những mặt hàng rất tốt, giá rất hời… Ồ, có cuốn sách B rất hay vừa mới xuất bản… À, tôi vừa khỏi bệnh, vì được một ông bác sĩ rất giỏi chữa cho, ông ấy có phòng mạch ở đường C… Chúng ta sẽ nói cho người này người khác những tin tốt lành như thế, sẽ giới thiệu cho anh em bè bạn, sẽ mau mắn nhắn cho người thân, người quen biết… Chẳng ai khó chịu vì chuyện đó cả.
Vâng, “Kitô hữu phải như là những người muốn chia sẻ niềm vui của mình, […] mời gọi mọi người tới dự một bữa tiệc ngon. Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng sức thu hút” (NVTM 14). Chúng ta hãy chia sẻ về Chúa, chia sẻ một câu chuyện về Chúa, một câu Lời Chúa đã chạm đến mình, đã làm biến đổi cuộc đời mình. Khi chúng ta cảm thấy vui vì khám phá ra tình yêu của Chúa, tự nhiên chúng ta muốn chia sẻ với người khác. Chia sẻ như thế, kể ra như thế thì đâu phải là chiêu mộ… Niềm vui biết Chúa, niềm vui có Chúa… có tính chất lan tỏa. Chúng ta không thể giữ niềm vui đó cho riêng mình, không thể chôn giấu trong tim, mà không sẻ chia cho những người thân quen, cho mọi người…
Nếu loan báo Tin Mừng là việc chia sẻ kinh nghiệm về Chúa, chia sẻ niềm vui có Chúa thì chúng ta không chỉ loan báo Tin Mừng cho các anh chị em chưa biết Chúa mà là cho cả cho những anh em đồng đạo, trong cùng giáo xứ, trong cùng đoàn thể…, những người cùng tham dự phụng vụ và cầu nguyện với chúng ta. Chúng ta có thể chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm thiêng liêng, những kinh nghiệm được đổi mới chữa lành, những kinh nghiệm trong việc làm quen gặp gỡ anh chị em lương dân… Những chia sẻ giữa anh chị em đồng đạo với nhau sẽ nâng đỡ, sẽ hun đúc hồn tông đồ, sẽ gia tăng nhiệt tình truyền giáo nơi anh chị em chúng ta…
Từ đó chúng ta mới nhận ra một lý do nữa khiến chúng ta chưa nói về Chúa cho anh chị em mình, hoặc khiến anh chị em ngoại giáo cảm thấy khó chịu, phản ứng lại… là vì chúng ta chưa cảm nhận được niềm vui biết Chúa, có Chúa. Nói rõ hơn, chúng ta sống đạo một cách máy móc; việc đi lễ, đi nhà thờ, đọc kinh cầu nguyện… như những việc miễn cưỡng phải thực hiện chứ không phải là hồng phúc, là niềm vui vì được gặp Chúa, vì được Lời Chúa dạy dỗ bảo ban…; việc tuân giữ kỷ luật là các bổn phận không mong muốn… chứ không phải là một lựa chọn tự nguyện… Thế nên tôi có lối sống hai mặt, giả hình, không thật với Chúa, không thật với chính mình và không thật với anh em…
Lại một tội khác tôi nhận ra nơi mình: Tôi sống với Chúa như với một chủ nợ hay với một ông thần hay bắt lỗi, xét nét, đòi hỏi… với tâm thế của một con nợ, một thần dân, một kẻ làm công… chứ không sống với tâm tình người con dành cho Cha trên trời…
Trong Tông sắc Spes non Confundit, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Trong Năm Thánh, chúng ta được mời gọi trở nên những dấu chỉ hy vọng hữu hình cho những anh chị em đang sống trong những hoàn cảnh khốn cùng” (SnC 10). Anh chị em lương dân đang sống trong cảnh khốn khổ vì không biết Chúa. Chúng ta có sứ vụ Loan báo Tin Mừng hy vọng và yêu thương cho họ. Họ đang rất cần đón nhận được Tin Mừng.
Trước người nghèo khổ đáng thương chúng ta đã rộng tay giúp đỡ, ước gì mọi Kitô hữu chúng ta cũng biết động lòng xót thương những anh chị em chưa biết Chúa.
Chúng ta đã tham gia phục vụ, xây dựng giáo xứ, cộng đoàn… Ước gì mọi tín hữu chúng ta cũng có một tấm lòng nhiệt tâm như vậy trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Ước gì mọi người chúng ta biết say mê tìm đọc Lời Chúa, để mỗi ngày được biết Chúa hơn, cảm nhận được niềm vui Tin Mừng, nhận ra hạnh phúc khi được làm con Chúa, được tham dự việc thờ phượng Chúa trong mỗi thánh lễ, được lắng nghe Lời Chúa và được Chúa dạy bảo, hầu có thể chia sẻ với người khác hạnh phúc vì biết Chúa.
Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ Maria, Mẹ đã mang Chúa Giêsu đến cho nhân loại, xin Mẹ giúp Giáo hội Việt Nam nhận ra thiếu sót của mình trong việc loan báo Tin Mừng, cách riêng cho mỗi người chúng ta nhận ra tội của mình.
Xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn chúng ta, biến đổi Hội Thánh… Amen!
Lm. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 147 (Tháng 5 & 6 năm 2025)
