
“Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: “Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi”. Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
Xướng: 1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất.
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
Bài Ðọc II: 2 Tm 3, 14 – 4, 2
“Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 1-8
“Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù’. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'”.
Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Ðó là lời Chúa.
Bài 1: TÌM THẤY LÒNG TIN
Suy niệm
Người tín hữu dễ mất đức tin
khi họ xin những điều rất bình thường tự nhiên
mà không được Chúa nhậm lời.
Họ mất đức tin, vì nếu Thiên Chúa có thật,
hẳn Ngài phải giải thoát họ khỏi cảnh cùng khốn,
và giúp họ thắng được kẻ áp bức bạo tàn.
Nếu Ngài thật sự là Đấng yêu thương và toàn năng,
Ngài không thể để kẻ dữ tha hồ tác oai tác quái.
Chúa Giêsu biết lòng tin con người mong manh,
nên Ngài đã kể dụ ngôn sau đây để minh họa.
Có hai nhân vật trong cùng một thành phố
Một ông quan tòa bất chính và một bà góa.
Quan tòa bất chính vì không có hai điều
quan trọng và cần thiết cho chức vụ của ông.
Đó là kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng con người.
Bà góa vốn là người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Bà không còn người chồng để tựa nương,
nên bà dễ bị chèn ép và đối xử bất công.
Nhưng bà góa trong dụ ngôn này lại rất kiên quyết.
Bà đã làm đơn để kiện người làm hại mình.
Nhiều lần, bà đi gặp thẳng quan tòa,
đòi ông phải giải quyết vụ việc.
Quan tòa có vẻ không để tâm đến chuyện này.
Ông cứ lần lữa một thời gian khá lâu.
Nhưng cuối cùng, ông quyết định sẽ xử lý ổn thỏa,
đơn giản vì ông không muốn bị bà quấy rầy nữa,
và cũng không muốn chịu những hậu quả tồi tệ.
Như thế dụ ngôn trên đã có một cái kết tốt đẹp,
nhưng ta vẫn phải tiếp tục suy nghĩ về ý nghĩa của nó.
Đức Giêsu có lúc đã ví chuyện Ngài đến như kẻ trộm,
nghĩa là đến bất ngờ, không báo trước.
Bây giờ Ngài lại dùng hình ảnh ông quan tòa bất chính
để nói về Thiên Chúa là Đấng công chính.
Có nét giống nhau giữa Thiên Chúa và ông quan tòa.
Cả hai đều lo việc xét xử,
đều phải lắng nghe người ta đến kêu oan.
Công việc của cả hai là đem lại sự công bằng,
người có tội bị trừng phạt, người bị hại được đền bù.
Thiên Chúa và ông quan tòa còn có điểm chung khác:
cả hai đều bắt người ta phải chờ lâu.
Ông quan tòa từ chối việc minh xét cho bà góa.
Thiên Chúa cũng trì hoãn trì hoãn việc minh xét
cho những kẻ được Người tuyển chọn.
Cuối cùng, ông quan tòa quyết định giúp bà góa.
Còn Thiên Chúa có minh xét cho con người không?
Nhìn vào thế giới hôm nay, có bao tiếng kêu xin
tương tự như tiếng nài nỉ của bà góa.
Bao phụ nữ hôm nay phải chịu những bất công.
Có những người bị lạm dụng mà không dám mở miệng.
Ở một số nước, phụ nữ không được đi học, đi làm.
Nhiều người vợ bị bạo hành trong gia đình,
và sống như cái bóng trong chế độ gia trưởng.
Họ đã kêu lên Chúa trong thời gian lâu dài,
kêu cả ngày lẫn đêm, nhưng chẳng thấy Ngài đáp lại.
“Nhưng khi Con Người đến,
liệu Người có tìm thấy lòng tin trên mặt đất chăng?
Đó là câu kết của bài Phúc Âm hôm nay,
một câu kết có phần bi quan từ chính Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu như tự hỏi xem vào ngày Ngài trở lại,
có còn ai tin vào Ngài không, hay nản lòng tuyệt vọng.
Như bà góa, chúng ta kiên trì tin tưởng cầu xin Chúa
cứu chúng ta cho khỏi sự dữ và thần dữ.
Nhưng chúng ta không được bịt tai
trước tiếng kêu cứu của con người hôm nay.
Chúng ta biết mình phải chịu trách nhiệm
trước mọi bất công, chiến tranh, đói nghèo trên mặt đất.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Cha không cho phép.
Nhưng lắm khi chúng con không hiểu được
tại sao Cha cho phép chuyện tồi tệ đó xảy ra.
Dù sao chúng con tin rằng,
đối với những ai yêu mến Cha,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ.
Lạy Cha đầy lòng thương xót,
chúng con tin rằng những gì Cha cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con,
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Cha đau đớn khi đôi khi phải dùng roi mà sửa dạy
như cha mẹ rầy la để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Cha muốn nhắc nhở,
và điều chỉnh lại đời mình cho hợp với ý Cha. Amen.
Bài 2: KHÔNG NẢN CHÍ
Suy niệm
Ngày 14/10/2010 là ngày vui đối với người dân Chilê.
Ba mươi ba người thợ mỏ bị sụp hầm sâu gần 700 m, được giải cứu.
Mười bẩy ngày đầu họ sống trong bóng tối, cạn kiệt lương thực.
Họ còn phải sống gần hai tháng nữa mới được cứu lên khỏi mặt đất.
“Tôi ở giữa Thiên Chúa và quỷ sứ. Tôi bị giằng co giữa hai bên.
Tôi nắm chặt lấy bàn tay Chúa, và Chúa đã cứu tôi.”
Đó là câu nói của anh Mario Sepulveda,
người thợ mỏ thứ hai được đưa lên khỏi “địa ngục”.
Khi còn ở dưới hầm, Jimmy Sanchez, anh thợ trẻ nhất nhóm đã viết:
“Ở đây chúng tôi có 34 người,
vì Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng tôi.”
Dù người ta nhắc đến khoa học như chìa khóa cho thành công,
nhưng chính việc cầu nguyện đã cho họ sức mạnh để đứng vững.
“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.”
Đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta qua dụ ngôn này.
Bà góa là người không còn chỗ dựa của người chồng.
Bà lại còn là nạn nhân của một sự bất công chèn ép.
Nhất quyết không để mình bị bóc lột,
bà đã nhiều lần đến gặp quan tòa để xin ông minh xét cho.
Tiếc thay ông này lại là một vị quan tòa bất chính,
nên vụ kiện bị ngâm trong một thời gian khá lâu.
Nhưng bà không hề nản chí, và cuối cùng bà đã thắng.
Ông quan tòa đã phải đem ra xử vụ kiện,
chỉ vì bị bà quấy rầy liên tục.
Đức Giêsu đã táo bạo khi kể dụ ngôn trên.
Ngài dám so sánh Thiên Chúa với ông quan tòa bất chính.
Dĩ nhiên, Thiên Chúa tốt lành thì chăm lo cho con người,
ngược hẳn với ông quan tòa lãnh đạm (c. 2).
Nhưng lắm khi Ngài cũng bắt chúng ta phải chờ !
Chúng ta có kinh nghiệm
về một Thiên Chúa như hững hờ, như xa lạ,
trước tiếng kêu của người chịu bất công áp bức.
Có bao tiếng kêu như thế vang vọng từ khắp địa cầu.
Có bao người chịu bách hại mà không thể lên tiếng.
“Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho” (c. 3).
Đó là tiếng kêu muôn thuở của người thấp cổ bé miệng.
Chúng ta ngỡ ngàng
khi thấy Thiên Chúa không lên tiếng bênh vực,
không hành động gì để giải cứu, giải oan.
Đức Giêsu mong chúng ta đừng thất vọng
trước những bất công trên thế giới,
đừng nản lòng khi lời cầu của ta có vẻ rơi vào quên lãng.
Hãy tiếp tục cầu nguyện,
vì Thiên Chúa tốt hơn ông quan tòa nhiều.
Nếu quan tòa cuối cùng còn xử kiện cho bà góa
chỉ vì tránh bị quấy rầy,
thì huống hồ là Thiên Chúa,
Đấng sẽ làm rõ trắng đen vì lòng cảm thương.
Lẽ nào Người bắt những kẻ Người tuyển chọn,
những kẻ ngày đêm kêu cứu với Người phải chờ đợi mãi?
Ngày nào còn bất công trên thế giới,
lòng tin của chúng ta còn bị thách đố
Chỉ mong chúng ta vẫn giữ được lòng tin
như những người thợ mỏ ở trong hầm tối nhiều ngày.
Cầu nguyện
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con. (Thánh Charles de Foucauld)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ