Canh tân Hội đồng Mục vụ Giáo xứ để giáo xứ trở thành người lữ hành của niềm hy vọng

Cuộc canh tân giáo xứ được thực hiên dựa trên hai yếu tố: trao tặng và làm chứng qua hai hình thức: Hội đồng mục vụ giáo xứ và các đoàn thể tông đồ.

Cộng đoàn giáo xứ có một nơi cụ thể và bao gồm một số người cụ thể, là cộng đồng của những người được thành lập bởi Lời và Bí tích, được hiệp nhất và hướng dẫn bởi vị mục tử nhằm tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ con người, những người sống trong sự hiệp nhất với Giáo hội như một toàn thể tin vào Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về ơn cứu độ được ban qua Người. Qua một Phép rửa và qua việc tham dự vào bàn tiệc duy nhất của Chúa, cộng đoàn giáo xứ như là một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô. Theo nghĩa rộng nhất, Giáo hội của Chúa Kitô được hiện thực hóa ở bất cứ nơi nào có hai hoặc ba người cùng nhau nhân danh Chúa Giêsu, vì thế giáo xứ được coi là tế bào quan trọng nhất của Giáo hội Chúa Kitô.

Thánh bộ Giáo lý Đức tin đã trình bày lý do hiện hữu của giáo xứ: Giáo xứ được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu mục vụ rõ rệt, cụ thể là đem Tin Mừng đến với dân chúng bằng việc thông truyền đức tin và cử hành các Bí tích. “Nguyên nghĩa của từ ‘giáo xứ’ cho thấy rõ ý nghĩa của cơ chế này: giáo xứ là một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà và là lời giải đáp cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống và hoạt động giữa cộng đoàn. Vì thế, nét đặc trưng cụ thể của giáo xứ là một nơi thờ phượng, một dấu chỉ của việc Chúa Phục Sinh luôn hiện diện giữa Dân Người”. “Nhờ sự phân định này, giáo xứ được mời gọi nhận ra các dấu chỉ của thời đại, khi đáp ứng nhu cầu của các tín hữu và những biến chuyển lịch sử. Cần phải có một sức sống mới giúp tái khám phá ơn gọi của những người đã được rửa tội là trở nên môn đệ của Đức Giêsu Kitô và là nhà thừa sai rao giảng Tin Mừng, dưới ánh sáng của Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công đồng”.

Trong thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, giáo xứ như người lữ hành của niềm hy vọng mang lấy trong mình một không gian tin cậy, nơi đó mọi người tìm thấy niềm vui, tình huynh đệ, sự công bằng và tình bác ái, trở thành dấu chỉ của Vương quốc Thiên Chúa. Có thể nói cộng đoàn giáo xứ là nơi vừa thi hành những nhiệm vụ “thuộc về trời”, lẫn thực thi những công việc “thuộc về đất”. Giáo xứ mang lấy sứ vụ của Giáo hội là loan báo Vương quốc của Chúa Kitô và của Thiên Chúa và Vương quốc này được khởi sự từ trái đất, khi Giáo hội dần dần lớn lên, Giáo hội khao khát vươn tới Vương quốc hoàn chỉnh; Giáo hội hy vọng và khao khát được hợp nhất với Vua của mình trong vinh quang bằng tất cả nỗ lực của mình.

Ý thức được sự căng thẳng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa tiếng gọi và sự thực hiện sứ vụ, Giáo hội luôn nỗ lực canh tân hầu đáp ứng với hoàn cảnh thực tế của con người ngày hôm nay, và giáo xứ, tế bào sống động của Giáo hội, là nơi để Giáo hội khởi sự cuộc canh tân, vì giáo xứ là “môi trường bình thường, nơi chúng ta học cách lắng nghe Tin Mừng, nhận biết Chúa Giêsu, phục vụ với sự quảng đại cho đi nhưng không, cầu nguyện trong cộng đoàn, chia sẻ các kế hoạch và sáng kiến, cảm nhận mình là một phần của Dân Thánh của Thiên Chúa”, chính nơi giáo xứ, mọi người cảm nghiệm được tình huynh đệ, mọi người đều là anh chị em với nhau, sợi dây huynh đệ được hình thành qua bí tích Rửa tội, do đó mỗi người đều cảm nhận được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trong cộng đồng giáo xứ, “mỗi người có những đặc sủng khác nhau, tất cả vì lợi ích của cộng đồng, đời sống đó là ơn gọi, theo Chúa Giêsu; đức tin là một món quà để được trao tặng, và để làm chứng.”

Cuộc canh tân giáo xứ được thực hiên dựa trên hai yếu tố này: trao tặng và làm chứng qua hai hình thức: Hội đồng mục vụ giáo xứ và các đoàn thể tông đồ.

1. Hội đồng Mục vụ Giáo xứ: Tham dự vào công việc canh tân giáo xứ

Hội đồng mục vụ giáo xứ là một tổ chức nhằm cộng tác với cha xứ trong việc trao ban tình huynh đệ của mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ qua việc phục vụ. Thật vậy, Giáo hội đang nỗ lực trên hành trình của mình để trở nên một Giáo hội không gắn bó với vật chất nhưng vào việc phục vụ Thiên Chúa và con người; “một Giáo hội dấn thân cho sự phát triển toàn diện, chăm sóc bệnh nhân, người nghèo, người bị gạt ra bên lề; tóm lại, là một Giáo hội của Chúa Kitô, không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ”. Theo trách nhiệm của mình, cha xứ phải hướng dẫn giáo xứ không co cụm, buồn bã, cam chịu, nhưng “chấp nhận thách thức, trung thành với các giá trị của mọi thời đại, khám phá lại và đánh giá lại các con đường loan báo Tin Mừng theo cách thức mới, ngày càng chuyển từ cách tiếp cận đơn giản là chăm sóc mục vụ sang cách tiếp cận loan báo truyền giáo”. Cha xứ chỉ có thể chu toàn trách nhiệm của mình nhờ sự cộng tác của Hội đồng mục vụ giáo xứ. Đức thánh cha Phanxicô đã nói: “Các Hội đồng mục vụ thật là cần thiết! Một giám mục không thể điều hành giáo phận mà không có các Hội đồng mục vụ. Một linh mục chính xứ cũng không thể nào điều hành được nếu không có Hội đồng mục vụ”

Bộ giáo luật điều 536 đã nhấn mạnh HĐMV gồm những giáo dân thuộc giáo xứ được mời gọi và tuyển chọn để hợp lực cộng tác với linh mục chánh xứ trong việc quản trị giáo xứ, tổ chức và điều hành các sinh hoạt mục vụ, xây đắp tình liên đới và sự hiệp thông, giải quyết những vấn đề, giải toả những bất đồng, nhằm góp phần xây dựng giáo xứ thành một cộng đoàn tư tế phụng thờ Thiên Chúa, sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng, yêu thương và phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người trong bối cảnh văn hoá xã hội ngày nay.

Sự phục vụ này là điều mà Đức thánh cha Phanxicô nói về Giáo hội: người lữ hành của niềm hy vong. Hội đồng mục vụ giáo xứ cộng tác với cha xứ để giáo xứ thực sự là người lữ hành của niềm hy vọng. Trong Sắc chỉ Spes non confundit, Đức thánh cha nói: “Mọi người đều hy vọng. Niềm hy vọng nơi tâm hồn mỗi người như nỗi khao khát và chờ đợi những điều tốt đẹp sẽ đến, dù chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Dù vậy, tính bấp bênh của tương lai lại gây ra những cảm xúc đôi khi trái ngược: từ tin tưởng đến lo sợ, từ thanh thản đến chán nản, từ xác tín đến nghi ngờ. Chúng ta thường gặp những người chán nản, họ nhìn về tương lai với thái độ hoài nghi và bi quan, như thể chẳng điều gì có thể mang lại hạnh phúc cho họ”. Ai sẽ dẫn đưa con người ra khỏi tình trạng bấp bênh này để niềm hy vọng luôn cháy bỏng nơi con người? Thưa chính Giáo hội, bởi “chính Chúa Thánh Thần luôn hiện diện cùng Giáo hội lữ hành để chiếu tỏa ánh sáng hy vọng trên các tín hữu: Ngài giữ cho ánh sáng ấy luôn cháy như một ngọn đuốc không bao giờ tắt để nâng đỡ và ban sinh lực cho chúng ta. Thật vậy, niềm hy vọng Kitô giáo không lừa dối cũng không làm thất vọng vì nó dựa trên niềm xác tín rằng không có gì và không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa”.

Giáo xứ cụ thể hóa việc thắp sáng này qua vị chủ chăn cùng với Hội đồng mục vụ giáo xứ. Ngày 28/8/2020, Đức cha Corrado Sanguineti, Giám mục giáo phận Pavia, ở miền bắc Italia nhận định: “Chúng ta khiêm tốn nhận thực rằng các quảng trường với những sinh hoạt ăn chơi ban tối đầy người, những nơi nghỉ hè và giải trí cũng vậy, và chúng ta cảm thông một ước muốn tiêu khiển, những thời kỳ thanh thản hơn, chung với gia đình và bạn hữu. Nhưng không có nhiều người cảm thấy cần đến với Chúa Giêsu, gặp gỡ Chúa nơi bàn tiệc Lời Chúa và Bánh Sự Sống, và tất cả những điều đó đặt câu hỏi cho chúng ta như những mục tử, như Giáo hội: những hoàn cảnh của thời nay bày ra ánh sáng một sự nghèo nàn về đức tin trong cuộc sống của bao nhiêu người và những hoàn cảnh ấy yêu cầu chúng ta, trong tư cách là cộng đoàn Kitô hãy để cho mình bị khiêu khích, và thanh tẩy lối sống và việc làm chứng bằng cuộc sống theo Tin Mừng”.

– Hội đồng mục vụ giáo xứ giúp cha xứ củng cố cộng đoàn giáo xứ kiên vững trong đức tin

Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân minh định: “Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi quy tụ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo hội. Giáo hội nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình trong các hoạt động của giáo xứ. Họ cũng nên tập quen trình bày với cộng đoàn giáo hội về những vấn đề riêng của cộng đoàn mình hay của cả thế giới, hoặc những vấn đề liên quan đến ơn cứu độ con người, để cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tùy khả năng mà trợ giúp những công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình Giáo hội địa phương”.

Vì vậy đứng trước khủng hoảng về đời sống đức tin trong thời đại tục hóa hôm nay, Hội đồng mục vụ giáo xứ được mời gọi cùng cộng tác với cha xứ trong việc củng cố đời sống đức tin của người tín hữu trong giáo xứ, đặc biệt đời sống cầu nguyện qua việc kết hợp mật thiết với Thánh Thể trong các thánh lễ. Thật vậy “giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và các cuộc đời của những con người, và không trở thành một cơ chế cách ly với con người hay một nhóm khép kín gồm một ít người được tuyển chọn. Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định, một môi trường để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và mừng lễ”.

Đức thánh cha Phanxicô nhấn mạnh: “Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo”, vì thế giáo xứ cần luôn nỗ lực canh tân để trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và thực sự là niềm hy vọng cho tất cả mọi người, niềm hy vọng mà cộng đoàn giáo xứ trình bày không gì hơn chính là tình yêu của Thiên Chúa, “Chỉ tình yêu Ngài mới ban cho chúng ta khả năng nhẫn nại chịu đựng ngày qua ngày, và không ngừng được khích lệ bởi hy vọng, trong một thế giới mà tự chính bản chất là không hoàn thiện. Tình yêu của Ngài cũng đồng thời là một bảo đảm cho chúng ta về sự hiện hữu của điều mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận mơ hồ nhưng dù thế, trong thẳm sâu tâm hồn, chúng ta vẫn trông đợi: đó là một cuộc sống ‘thực sự’”. Giáo xứ trình bày niềm hy vọng qua các thành viên của giáo xứ, đặc biệt các thành viên thuộc Hội đồng mục vụ giáo xứ. Để có thể trao ban niềm hy vọng, mỗi thành viên Hội đồng giáo xứ được coi như là cộng sự viên của cha xứ cần phải:

a/ Có lòng đạo đức

Như người lữ hành của niềm hy vọng, giáo xứ cần phải kiến tạo một bầu khí thánh thiêng, bởi niềm hy vọng “phát sinh từ tình yêu và dựa trên tình yêu tuôn trào từ Trái tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên thập giá: ‘Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy’ (Rm 5,10). Và sự sống của Người được biểu lộ nơi đời sống đức tin của chúng ta, khởi đầu bằng phép Rửa, tăng triển trong sự mở lòng trước ân sủng của Thiên Chúa, được sinh động bởi niềm hy vọng luôn được đổi mới và nên vững mạnh nhờ tác động của Chúa Thánh Thần”. Do đó niềm hy vọng Kitô là niềm hy vọng nảy sinh từ đức tin, nên các thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ phải có lòng đạo đức mới có thể thắp sáng niềm hy vọng cho cộng đoàn giáo xứ của mình.

Lòng đạo đức được xây dựng bằng chính đời sống cầu nguyện: Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy chúng ta rằng: “Cầu nguyện chính là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Ngài trong tình yêu và để cầu xin những ơn cần thiết”. Kinh nghiệm của các thánh còn cho thấy cầu nguyện không chỉ đưa chúng ta đến với Chúa, mà còn liên kết chúng ta với tất cả những ai đang có cùng chung tâm tình thờ phượng Thiên Chúa trong sợi dây hiệp thông và nhất là trong tình yêu thương của chính Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể ví cầu nguyện giống như hơi thở của sự sống: nếu hơi thở cần cho sự sống thế nào thì đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu chúng ta cũng không thể thiếu cầu nguyện như vậy. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói về sự quan trọng của cầu nguyện như sau:

“Không cầu nguyện thì không có đức tin,

Không có đức tin thì không có tình mến,

Không có tình mến thì không có phục vụ,

Không có phục vụ thì không có niềm vui, không có bình an.”

Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh: “Bối cảnh thiết yếu đầu tiên cho việc thắp sáng niềm hy vọng là cầu nguyện. Khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn có thể tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi luôn luôn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, Chúa có thể giúp tôi. Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô liêu hoàn toàn…; nếu tôi cầu nguyện thì tôi không bao giờ hoàn toàn đơn côi”. Đức thánh cha đã củng cố lập luận này qua mẫu gương của Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, ngài nói: “Đức cố hồng y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quý giá: Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng. Trong vòng 13 năm tù đày, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu”.

Như thế, việc cầu nguyện luôn có một vai trò quan trọng và thiết yếu trong cuộc sống người lữ hành. Khi cầu nguyện chúng ta kiến tạo một cuộc gặp gỡ giữa thâm sâu của chính tôi với Chúa, qua cuộc gặp gỡ này “chúng ta mở lòng mình ra cho Chúa và sẵn sàng cho việc phục vụ đồng loại. Chúng ta trở nên có khả năng cho niềm hy vọng vĩ đại, và do đó, trở thành các thừa tác viên của niềm hy vọng cho kẻ khác. Hy vọng trong ý nghĩa Kitô giáo luôn luôn cũng là niềm hy vọng cho những người khác… Đó cũng là niềm hy vọng tích cực theo nghĩa là chúng ta giữ cho thế giới này mở lòng ra cho Thiên Chúa. Chỉ trong đường lối ấy niềm hy vọng này mới tiếp tục là niềm hy vọng nhân bản đích thật.”

Theo giáo huấn của Đức Giêsu, trọng tâm lời kinh cầu xin của Kitô giáo là sự khao khát và tìm kiếm Nước Chúa đang đến. Việc cộng tác như vậy vào sứ vụ của Đức Kitô và của Chúa Thánh Thần, nay là sứ vụ của Hội Thánh, là đối tượng cầu xin của cộng đoàn thời các Tông đồ “Kinh nguyện của thánh Phaolô, vị Tông đồ ngoại hạng, mặc khải cho ta thấy sự quan tâm thánh thiện đến tất cả các giáo đoàn, phải gợi hứng cho kinh nguyện Kitô giáo như thế nào. Bằng cầu nguyện, mọi người đã chịu Phép Rửa đều hoạt động cho Nước Chúa trị đến”. Giáo huấn của Giáo hội một lần nữa khẳng định việc cầu nguyện của cộng đoàn giáo xứ, trước tiên là thánh hóa cộng đoàn được thánh thiện như là điều kiện tiên quyết để cộng đoàn giáo xứ mang lấy niềm hy vọng hướng tới Nước Trời, kế đến qua cầu nguyện cộng đoàn giáo xứ hiện thực Nước Trời ngay trong đời sống hiện tại bằng chính sự hiệp thông trong tình huynh đệ, cùng trao cho nhau lời cầu chúc bình an, và cùng nhau chia sẻ cho người cần giúp đỡ. Không chỉ là cha sở, người chủ chăn, khích lệ đời sống cầu nguyện của cộng đoàn, nhưng cộng đoàn giáo xứ còn đòi hỏi sự mẫu mực của các thành viên hội đồng giáo xứ, vì đó là chất xúc tác để kiến tạo sự hiệp thông cộng đoàn giáo xứ. Chính sự hiệp thông này trình bày cách sống động niềm hy vọng Kitô giáo.

Đức Bênêđictô XVI đã nói: “Mọi hành động nghiêm chỉnh và đúng đắn của con người đều là niềm hy vọng bằng hành động. Trước tiên điều đó có nghĩa là chúng ta nỗ lực thực hiện các niềm hy vọng của chúng ta, nhỏ bé hay lớn lao hơn: hoàn thành công việc này hoặc công việc kia vốn quan trọng trong cuộc hành trình tiến lên của chúng ta, hoặc chúng ta hành động cho một thế giới tươi đẹp và nhân bản hơn để mở rộng cửa cho tương lai. […] Vì thế một mặt, hành động của chúng ta nảy sinh niềm hy vọng cho chúng ta và cho người khác; nhưng đồng thời, đó là niềm hy vọng lớn lao đặt nền tảng trên các lời hứa của Thiên Chúa vốn đem lại cho chúng ta sự can đảm và hướng dẫn hành động chúng ta trong thời thuận tiện cũng như không thuận tiện”.

Nhờ có lòng đạo đức, các thành viên Hội đồng mục vụ cảm nghiệm về sự gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu. Nhờ cảm nghiệm này, Hội đồng mục vụ giáo xứ giúp cộng đoàn giáo xứ đạt tới cùng đích của sự hiện hữu mình, đó là gặp gỡ được Đức Kitô. Đức Phanxicô đã nói: “Có thể thấy rõ rằng đời sống Kitô hữu là một con đường cần những khoảnh khắc mạnh mẽ để nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng như người bạn đồng hành không thể thay thế, cho ta thoáng thấy mục tiêu là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu”.

Gặp được Đức Kitô là gặp được lòng thương xót, gặp được ơn tha thứ lớn lao, cuộc gặp gỡ đó giúp cộng đoàn giáo xứ “có thể canh tân đời sống đức tin và thỏa cơn khát nơi nguồn hy vọng, trước hết bằng cách đến với bí tích Hòa giải, là điểm khởi đầu không thể thay thế của con đường hoán cải đích thực”. Có như thế giáo xứ thực sự trở thành “những dấu chỉ của thời đại, trong đó có nỗi khát vọng của tâm hồn con người, vốn cần đến sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, đòi phải được biến đổi thành những dấu chỉ của niềm hy vọng”, như lời Công đồng Vaticanô II đã minh định: “Lúc nào Giáo hội cũng có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy.”

b/ Khả năng kiến tạo tính hiệp hành trong cộng đoàn giáo xứ

Tính hiệp hành phải được thể hiện trong cách sống và làm việc thông thường của Giáo hội. Theo nghĩa này, tính hiệp hành giúp toàn thể Dân Chúa cùng nhau tiến bước, lắng nghe Chúa Thánh Thần và Lời Chúa, tham gia vào sứ mạng của Giáo hội trong sự hiệp thông mà Chúa Kitô thiết lập giữa chúng ta. Đó cũng là cách sống của giáo xứ. Tuy giáo xứ là một cộng đoàn được quy tụ bởi nhiều thành phần khác nhau, nhưng tất cả được kết nối nên một trong đức tin qua bí tích Rủa tội, sự hiệp thông nên một giữa các cá thể khác được mời gọi lắng nghe nhau để lắng nghe những thúc giục của Chúa Thánh Thần, Đấng đến để hướng dẫn những nỗ lực nhân bản của chúng ta, thổi sức sống vào đoàn thể và dẫn đưa mỗi cá thể vào sự hiệp thông sâu sắc hơn vì sứ mệnh mà mỗi thành viên trong giáo xứ phải dự phần vào.

– Kiến tạo sự hiệp thông

Sự hiệp thông Giáo hội bao gồm hai chiều kích: Hợp nhất và đa dạng, đồng nhất và riêng biệt. Sự duy nhất của Giáo hội được xây dựng trên hai chiều kích này qua mối tương giao được đặt trên nền tảng một đức tin duy nhất, và vì thế chỉ có một Dân Thiên Chúa được Người tuyển chọn và nói như Thánh Phaolô: “Chỉ có một Thiên Chúa, một Đức tin, một Phép Rửa” (Eph 4,5). “Các chi thể cùng chung một phẩm giá vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia. Do đó, trong Chúa Kitô và trong Giáo hội, không còn có sự hơn kém về nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ, bởi lẽ ‘không còn ngươì Do thái hoặc Hy lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô’”. Sư hiệp thông đoàn thể tông đồ cũng bắt nguồn từ sự hiệp thông Giáo hội này.

Đức Phanxicô khai sáng thêm tính hiệp hành của Giáo hội trong yêu tố duy nhất: “Các tín hữu trong Giáo hội cũng giống các thành viên trong gia đình mỗi người chúng ta nhận được tất cả những gì giúp chúng ta lớn lên, trưởng thành và sống. Ta không thể tự tăng trưởng một mình, không thể tự mình bước đi, tự cô lập, nhưng tiến bước và tăng trưởng trong một cộng đoàn, trong một gia đình. Trong Giáo hội chúng ta có thể nghe Lời Chúa, tin chắc rằng sứ điệp mà Chúa ban cho chúng ta, trong Giáo hội chúng ta có thể gặp Chúa trong các bí tích là những cánh cửa mở rộng qua đó ánh sáng Chúa Kitô chiếu dọi cho chúng ta, những dòng suối từ đó chúng ta kín múc chính sự sống của Thiên Chúa; trong Giáo hội chúng ta học cách sống tình hiệp thông, tình thương đến từ Thiên Chúa”.

Qua chỉ dẫn này, chúng ta có thể đưa ra hệ luận: các thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ phải mặc lấy con người của Đức Kitô để trở nên giống Chúa Kitô, Đấng đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Câu chuyện hai môn đệ Gioan và Giacôbê đến gặp Chúa xin một người ngồi bên hữu và một người ngồi bên tả Chúa trong vinh quang Nước Chúa (Mc 10,35-45) là bài học cho những người được giao phó trách nhiệm cộng tác vào việc quàn trị cộng đoàn Giáo hội, cụ thể giáo xứ: người làm lớn trước hết phải là người phục vụ. Sự phục vụ này chính là phục vụ cho sự hiệp thông cộng đoàn. Do đó để có thể phục vụ như Đức Kitô, người được mời gọi chia sẻ nhiệm vụ quản trị cộng đoàn giáo xứ phải mặc cho mình nhân đức khiêm nhường để sẵn sàng từ bỏ “cái tôi” luôn thúc giục chúng ta hướng tới quyền bính trần gian, nguyên nhân gây ra ra bao phân rẽ trong cộng đoàn giáo xứ. Sự phục vụ như Đức Kitô là quên mình để tìm thiện ích cho tha nhân, tức là đòi hỏi một sự dấn thân chấp nhận mất thời giờ, và một lòng can đảm đối diện với nhiều thách đố, có khi có cả sự hiểu lầm, nhưng những thành viên Hội đòng mục vụ giáo xứ luôn bền tâm vũng chí, vì mỗi người hành động không cậy vào sức mình, nhưng vào ơn Chúa, không mưu cầu vinh dự cho mình, nhưng vì thiện ích của đoàn thể.

– Thúc đẩy sự tham gia

Tại cuộc gặp gỡ phái đoàn đông đảo đại diện cho Giáo phận Rôma tại đại sảnh Phaolô VI vào ngày 18-9-2021, Đức thánh cha Phanxicô đã nói về tiến trình hiệp hành: “Hành trình này được quan niệm như một năng động tính của việc lắng nghe lẫn nhau, tôi muốn nhấn mạnh điều này: một năng động tính của việc lắng nghe lẫn nhau, được thực hiện ở mọi bình diện của Giáo hội, bao gồm toàn bộ Dân Chúa. Đức hồng y Đại diện và các giám mục Phụ tá phải lắng nghe nhau, các linh mục phải lắng nghe nhau, các tu sĩ phải lắng nghe nhau, giáo dân phải lắng nghe nhau. Và sau đó, mọi người cùng lắng nghe nhau. Lắng nghe chính anh chị em; nói chuyện và lắng nghe nhau”.

Đức thánh cha Phanxicô mô tả hai mục tiêu liên quan đến nhau của quá trình lắng nghe này: “lắng nghe Thiên Chúa, để cùng với Ngài chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của dân Ngài; lắng nghe dân Ngài cho đến khi chúng ta hòa hợp với ý muốn mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta.” Sự phân định cộng đồng giúp xây dựng các cộng đồng hưng thịnh và kiên cường phục vụ sứ mệnh của Giáo hội ngày nay. Sự phân định là một ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó đòi hỏi sự tham gia của con người chúng ta bằng những cách đơn giản: cầu nguyện, suy tư, chú ý đến tâm trạng nội tâm của mình, lắng nghe và nói chuyện với nhau một cách đích thực, có ý nghĩa và chào đón.

“Lắng nghe như một sự mở ra để đón nhận: điều này khởi đi từ mong muốn quy tụ triệt để – không ai bị loại trừ – hiểu theo một quan điểm hiệp thông với anh chị em và với Thiên Chúa, Vị Cha chung của chúng ta. Lắng nghe ở đây không phải là một hành vi thực dụng, mà là giả định thái độ cơ bản của một Thiên Chúa lắng nghe Dân mình, và sau đó của một Đức Chúa mà Tin Mừng không ngừng trình bày với chúng ta nơi hành động lắng nghe những người đến với Ngài trên những con đường của miền Thánh địa”; theo nghĩa này, việc lắng nghe giúp giáo xứ biến thành một không gian hiệp thông, nơi mọi người có thể tham gia và là nền tảng cho sứ mệnh của giáo xứ, sứ mệnh thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người vào Tin Mừng Đức Kitô.

Thế nhưng để có thể lắng nghe nhau, chúng ta phải noi theo Đức Kitô bài học về sự hiền lành và khiêm nhường. Bởi sự lắng nghe là lời mời gọi đi ra khỏi chính mình, khỏi tính tự ái kiêu căng. Một cuộc hành trình đi ra khỏi chính mình để lắng nghe người khác chính là chúng ta đang nói với người khác, lời được cất lên trong thinh lặng nơi môi miệng, và được nói ra từ tâm trí của sự thấu hiểu với thái độ tôn trọng và nhã nhặn, đây là tiếng nói của trái tim mà âm vang của nó được phát ra từ tấm lòng khiêm cung.

Khởi sự lắng nghe là lời khẩn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn can đảm, can đảm đẻ lắng nghe nhau. Cẩm nang cho Thượng Hội đồng về tính hiệp hành nhấn mạnh: “Mọi người đều có quyền được người khác lắng nghe, cũng như mọi người đều có quyền được nói. Cuộc đối thoại hiệp hành phụ thuộc vào sự can đảm của cả người nói lẫn người nghe. Không phải là sửa soạn lao vào cuộc tranh luận để tranh thắng. Đúng hơn, là đón chào những gì người khác nói như cách thế qua đó Chúa Thánh Thần có thể nói vì lợi ích của mọi người.”

Cuối cùng là học cách lắng nghe trong sự kiên nhẫn. Đức Phanxicô trong bài giảng Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng về tính hiệp hành của Giáo hội đã nói: “Chúng ta có giỏi lắng nghe không? ‘Thính giác’ của trái tim chúng ta tốt đến mức nào? Chúng ta có cho phép mọi người bộc lộ bản thân, bước đi trong đức tin dù họ gặp khó khăn trong cuộc sống, và trở thành một phần của đời sống cộng đồng mà không bị cản trở, từ chối hoặc phán xét không? Học cách lắng nghe lẫn nhau là một bài tập chậm và có lẽ mệt mỏi… Chúng ta đừng làm cách âm trái tim chúng ta; nhưng phải làm sao để chúng ta không bị bao vây trong những điều chắc chắn của chúng ta. Quá thường là những điều chắc chắn của chúng ta có thể khiến chúng ta đóng cửa. Chúng ta hãy lắng nghe lẫn nhau.”

Cộng tác với linh mục chánh xứ trong việc quản trị giáo xứ, Hội đồng mục vụ giáo xứ không phải cầm gậy chỉ huy, ra lệnh cách độc đoán, nhưng trên hết phải nỗ lực thúc đẩy sự tham gia của mọi thành viên trong giáo xứ qua việc đóng góp ý kiến, coi sự sống của giáo xứ là sự sống của chính mỗi thành viên thuộc về giáo xứ. Điều này có nghĩa là mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ “học hỏi từ việc lắng nghe cách đổi mới sứ mạng loan báo Tin Mừng dưới ánh sáng của các dấu chỉ thời đại, để tiếp tục cống hiến cho nhân loại một cách hiện hữu và sống, trong đó tất cả mọi người đều có thể cảm thấy được thuộc về và là những nhân vật chính. Trên con đường này, ngọn đèn soi cho chúng ta bước là Lời Chúa, Lời chiếu soi ánh sáng để chúng ta đọc lại, giải thích và diễn tả kinh nghiệm đã sống”. Như vậy không một ai trong giáo xứ được phép đứng bên lề, nhưng mỗi người phải chung tay xây đắp để giáo xứ đạt tới điều mà giáo xứ hướng tới: người lữ hành của niềm hy vọng.

2. Kiến tạo tình huynh đệ giữa các thành phần Dân Chúa trong giáo xứ

Trong lòng Giáo hội, nhờ bí tích Thánh Tẩy mọi người Kitô hữu được tái sinh làm con Thiên Chúa, nên tất cả được liên kết với nhau qua sự hiệp thông trong cùng một đức tin, một Phép Rửa, cùng dự phần vào sản nghiệp mà Đức Kitô đã sắm sẵn qua cái Chết và sự Phục sinh của Người, và cùng nhau cất tiếng kêu cầu: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, nên tất cả là anh em với nhau. Phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa, mọi người tín hữu trong Giáo hội được liên kết với nhau bằng mối dây đức ái Kitô giáo, nghĩa là “Tình yêu cốt tại chính điều này: trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Sự kiện này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chỉ bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô”.

Trong tình hiệp thông cộng đoàn giáo xứ, Hội đồng mục vụ giáo xứ thi hành nhiệm vụ theo chức năng của mình nhằm kiến tạo mối tương quan huynh đệ dựa vào nền tảng về “bản chất ‘tương quan’ của Giáo hội và tìm cách bảo đảm rằng các mối tương quan được trao cho chúng ta và được giao phó cho sự sáng tạo có trách nhiệm của chúng ta sẽ luôn là dấu chỉ của sự nhưng không của lòng thương xót. Một người được gọi là Kitô hữu nhưng không bước vào sự độ lượng và lòng thương xót của Thiên Chúa thì chỉ là một người vô thần đội lốt Kitô hữu. Lòng thương xót của Thiên Chúa giúp chúng ta đáng tin cậy và có trách nhiệm”.

Khi các thành viên Hội đồng mục vụ thi hành nhiệm vụ theo đúng chức năng của mình, không phải Hội đồng mục vụ làm việc thay vị chủ chăn nhưng “chúng ta được yêu cầu cùng nhau làm việc theo bản giao hưởng, trong một sáng tác kết hợp tất cả chúng ta trong việc phục vụ lòng thương xót của Chúa” phù hợp với ơn gọi Kitô hữu của mình. Khi phục vụ cho lòng thương xót của Chúa, người Kitô hành động theo tinh thần đức ái Kitô giáo, một đức ái mang tính thiên linh, vì đức ái này đến từ Thiên Chúa và giúp chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa, và trong tiến trình hiệp thông này, giúp chúng ta trở thành một “Chúng tôi”, vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một.

Vì vậy, giữa con cái của Thiên Chúa không có sự phân biệt màu da, tiếng nói, phong hóa… tất cả chỉ có một màu da duy nhất: màu trắng tinh trong của sự thánh thiện, tiếng nói duy nhất là tiếng nói yêu thương và phong hóa duy nhất là phong hóa sự sống… Tất cả hợp nhất với nhau thành một gia đình của Chúa, trong đó mối tương quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt trên nền tảng của sự bình đẳng có chung một phẩm giá là con Thiên Chúa. Trong sự bình đẳng đó, Chúa Thánh Thần mang lại những đoàn sủng khác nhau và đa dạng trong Giáo hội. Do đó, ngay chính trong mối tương quan huynh đệ đã hình thành hai mối tương giao: tương giao bình đẳng giữa các Kitô hữu qua bí tích Rửa tội, tương giao hiệp thông phẩm trật qua bí tích Truyền chức thánh. Hai mối tương giao này liên kết với nhau chặt chẽ và không thể tách rời.

Vì thế Hội đồng mục vụ giáo xứ như chất xúc tác làm cho mối tương giao giữa cha xứ và cộng đồng Dân Chúa được vụ này có khả năng đem lại hiệu quả cho Giáo hội và giữ cho sứ vụ đó được sống động, “cả hai bổ túc cho nhau, cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình” (LG 10). Như là anh em với nhau trong một gia đình Giáo hội, sự vâng phục phẩm trật Hội thánh không như đầy tớ vâng phục ông chủ, người nô lệ vâng phục kẻ cai trị, nhưng đây là sự vâng phục phát xuất từ tình yêu gia đình Giáo hội; vâng phục để phát huy sự hiệp nhất trong Giáo hội, để cho từng thành viên trong gia đình Giáo hội thực sự cảm nhận được rằng, Giáo hội thực sự là nơi an bình và tràn ngập niềm hy vọng hướng về một cuộc sống hạnh phúc đích thật: cuộc sống trong Nhà của Cha, có như thế giáo xứ mới chính là con đường của niềm hy vọng.

Vì là anh em với nhau, nên tất cả mọi người tín hữu cùng được mời gọi tham gia vào công việc xây dựng Hội Thánh Chúa, “qua việc chia sẻ trách nhiệm của hàng giáo sĩ với Giám mục của mình, như chu toàn các phận vụ được trao, hòa nhập vào đường hướng mục vụ chung của giáo phận và Giáo hội”. Vì là anh em với nhau, tất cả mọi người, không phân biệt giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ, đều được mời gọi tham gia vào các hội đoàn hay các nhóm nhỏ Kitô hữu để cảm nghiệm như thế nào là mầu nhiệm Giáo hội qua việc cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, sống phục vụ và yêu thương nhau trong sự đồng tâm nhất trí. Cho nên các thành viên Hội đồng mục vụ không tách mình khỏi sự hiệp thông cộng đoàn giáo xứ, nhưng trái lại cùng với mọi người kiến tạo một cộng đoàn tràn ngập niềm vui trong tinh thần đồng trách nhiệm của các thành phần dân Chúa trong đời sống của cộng đoàn giáo xứ.

Hội đồng mục vụ giáo xứ phải gây ý thức trong cộng đoàn giáo xứ nhận biết vì là anh em với nhau, nên tất cả cùng chia sẻ chung một sứ vụ của Giáo hội, đó là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho hết mọi người. Sứ vụ này thuộc về bản chất của Giáo hội, cho nên không một phần tử nào trong Giáo hội được phép bỏ qua hay đùn đẩy cho nhau. Việc loan báo Tin Mừng cũng không là đặc quyền của một ai, nhưng đây là nhiệm vụ chung của Giáo hội, và mỗi người tùy theo ơn gọi của mình mà thi hành cho thích hợp. Nói như thế để minh định rằng tất cả mọi thành phần trong gia đình Giáo hội được mời gọi làm tông đồ. Vì những ân sủng đã lãnh nhận, mọi người vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh của Giáo hội (x. LG 33), ngay cả người giáo dân cũng không cần một sự uỷ quyền hay một phép đặc biệt từ hàng giáo sĩ để làm tông đồ. Sứ mệnh tông đồ thuộc bản tính tự nhiên của người giáo dân (x. AA 2). Vì thế, như là thành phần của dân Chúa, người giáo dân một mặt là những thành phần tích cực trong lãnh vực thuộc Giáo hội như tham dự tích cực phụng vụ của Giáo hội, cộng tác trực tiếp vào công việc tông đồ của hàng giáo phẩm hoặc góp ý trong việc mục vụ; mặt khác họ quan tâm đến những lãnh vực thuộc về trần thế, về những nhu cầu của cuộc sống như: nghề nghiệp, công việc, cuộc sống trong gia đình và xã hội. Vâng, vì là anh với nhau, cho nên không ai là “công dân hạng hai” trong Giáo hội, tất cả đều được tôn trọng và đều đồng chịu trách nhiệm, kể cả chị em phụ nữ đều được tham gia và có trách nhiệm đối với những quyết định chung liên quan đến đời sống của Giáo hội.

Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Cuba vào ngày 28.3.2012, Đức Bênêđictô XVI đã nói: “Giáo hội tồn tại là để chia sẻ cho những người khác những gì Giáo hội sở hữu, đó không gì khác hơn là Chúa Kitô, là niềm hy vọng vinh quang của chúng ta (x. Co 1,27). Để thực hiện nhiệm vụ này, Giáo hội cần phải … mang đến cho người khác thông điệp của hòa giải, tình yêu và sự bình an mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới”. Giáo hội chỉ có thể mang hòa giải, tình yêu và sự bình an cho người khác khi tất cả các điều đó đã thực sự đâm chồi nảy lộc ngay trong lòng Giáo hội. Điều đó sẽ không có gì trở ngại nếu Hội đồng mục vụ giáo xứ hành động sao cho giáo xứ thực sự là một gia đình, vì đó là những yếu tố kiến tạo nên một gia đình hạnh phúc mà nhiều người hằng mong ước. Vì vậy, Hội đồng Giám mục Á Châu đã mạnh dạn đề nghị: “Cần thiết phải xây dựng Giáo hội như một gia đình của những con cái Thiên Chúa hơn là như một phẩm trật được phú ban với những cơ cấu và luật lệ nghiêm minh”.

3. Hội đồng mục vụ giáo xứ dấn thân canh tân Truyền giáo

Trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng Đức Phanxicô đã nói: “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành. Qua tất cả các hoạt động của mình, giáo xứ khuyến khích và đào tạo các thành viên của mình thành những nhà truyền giáo. Nó là một cộng đồng của các cộng đồng, là chỗ tạm trú nơi mà những người khát đến uống nước để tiếp tục cuộc hành trình, và một trung tâm nhà truyền giáo liên tục đi ra”.

Tuy nhiên nhìn chung các tín hữu giáo dân chúng ta vẫn chỉ dừng lại nơi các sinh hoạt giáo xứ mang tính “phô trương” hơn là biến cộng đoàn giáo xứ thành nơi “tạm trú” cho người khác dừng chân, không trình bày được một lối sống chan chứa niềm hy vọng về một sự sống mới trong Nước Chúa. Chúng ta tổ chức các cử hành phụng vụ thành những lễ hội hoành tráng, đông người tới quan chiêm vì tò mò hơn là khám phá vẻ đẹp của hiền thê Chúa Kitô, để người ta khao khát, ước muốn trở thành một thành phần cộng đoàn Dân Chúa. Các đoàn thể được trang bị những bộ đồng phục đẹp mắt, những cờ xí rợp trời trong các ngày đại lễ, một cuộc trình bày oai hùng với kèn trống chẳng khác một cuộc duyệt binh của chính quyền. Phải chăng đó là sứ vụ của đích thực của giáo xứ? Nhìn vào thực tế, để giáo xứ được sống động, Hội đồng mục vụ giáo xứ phải cùng chung tay với linh mục chánh xứ đưa ra những sáng kiến mục vụ, làm sao cho các sinh hoạt mục vụ không bị chi phối nhiều bởi hình thức bên ngoài, giải thoát người giáo dân khỏi trào lưu chuộng hình thức hơn là nội dung. Quả thật, khi thiết lập Giáo hội, Chúa Giêsu không đưa ra bất cứ một hình thức quảng cáo nào để “chiêu dụ” tín hữu, nhưng đơn giản chỉ là một lời mời gọi: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho Ta” (Mt 20,7).

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã minh định: Sứ vụ cứu độ của Giáo hội trong thế giới được thực hiện không những nhờ các thừa tác viên đã lãnh bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng còn nhờ tất cả mọi giáo dân: thực vậy, nhờ đã được chịu phép Thánh tẩy và nhờ ơn gọi chuyên biệt của mình, các giáo dân, mỗi người theo mức độ của mình, tham dự vào chức vụ Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả của Đức Kitô”, những tín hữu được quy tụ vào trong một cộng đoàn để nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, được gọi là giáo xứ. Cộng đoàn giáo xứ này được coi là tế bào của giáo phận và làm cho Hội thánh trở thành hiện hữu một cách cụ thể tại một nơi. Tuy nhiên giáo xứ không là một tổ chức cứng nhắc trong một lãnh thổ, theo Giáo luật 1983, khoản 515§1, yếu tố quan trọng làm nên giáo xứ là “cộng đồng”, chứ không phải lãnh thổ. Đã quá lâu, chúng ta thường coi giáo xứ là một vùng lãnh địa bất khả xâm phạm, và các sinh hoạt mục vụ nặng tính bảo tồn, chẳng hạn: duy trì kỷ luật ổn định trật tự, củng cố quyền bính theo não trạng giáo sĩ trị, thiết lập những cơ chế để cai trị hoặc phô trương, đầu tư công sức vào các sinh hoạt như xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nghi lễ long trọng. Và biến giáo xứ như một tổ chức theo mô hình của một xã hội trần thế, một công ty đa quốc gia được điều hành bởi các chuyên viên quản trị hành chánh, chính vì thế vô hình trung chúng ta làm mất đi vẻ đẹp cộng đoàn giáo xứ, vẻ đẹp thánh thiêng được chính Chúa Kitô kiến tạo bằng chính máu của Người đổ ra trên Thập giá.

Vì thế Đức Phanxicô khao khát một cuộc canh tân giáo xứ để chúng ta gần với dân chúng hơn, làm cho giáo xứ thành nơi hiệp thông sống động và tham gia. Việc canh tân đời sống giáo xứ trước tiên yêu cầu mỗi người tín hữu giáo dân chúng ta hãy can đảm dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. “Việc dấn thân của chúng ta không chỉ hệ tại các hoạt động hay các chương trình cổ động và hỗ trợ; điều mà Chúa Thánh Thần động viên không phải là một sự hiếu động thái quá, nhưng trước hết một chú tâm đến những người khác, ‘coi họ như một với mình’. Chú tâm yêu thương này là khởi đầu của một mối quan tâm thực sự đối với con người của họ, và từ đó tôi muốn tìm kiếm sự tốt lành của họ một cách có hiệu quả”. Việc canh tân được thực hiện từ lòng nhiệt thành và sự dấn thân của Hội đồng mục vụ giáo xứ, chính các thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ “tham gia vào cuộc sống hằng ngày của những người khác bằng việc làm và cử chỉ của mình, nó rút ngắn những khoảng cách, tự hạ mình xuống đến nỗi chịu sỉ nhục nếu cần, và chấp nhận đời sống con người, chạm đến thân xác đau khổ của Đức Kitô trong những người khác”. Hành vi dấn thân này giúp giáo xứ lan tỏa niềm hy vọng đến cho mọi người, khích lệ các thành viên trong cộng đồng giáo xứ trung kiên với đời sống đức tin, và can đảm vượt qua những thách đố trong cuộc sống.

Có như thế chúng ta đang nỗ lực bắc một nhịp cầu thân ái để đến với mọi lương dân sống trong giáo xứ, một nhịp cầu yêu thương, luôn mở rộng bàn tay để kết nối tình thân, một nhịp cầu thông hiểu để khi chuyển tải đức tin chúng ta không xúc phạm đến niềm tin của lương dân, một nhịp cầu kiên nhẫn để chúng ta không sớm bỏ cuộc trước những tấm lòng cứng cỏi, một nhịp cầu khiêm nhu để chúng ta luôn biết lắng nghe và đối thoại.

Đáp ứng sự yêu cầu canh tân giáo xứ, vào ngày 20/7/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”. Theo Huấn thị cần phải đổi mới mục vụ giáo xứ để có thể làm cho giáo xứ năng động hướng tới việc truyền giáo. Huấn thị mô tả giáo xứ là “một ngôi nhà giữa nhiều ngôi nhà” khi là dấu chỉ trường tồn của Đấng Phục Sinh ở giữa Dân Người và bản chất truyền giáo của nó là nền tảng cho việc truyền giáo. Toàn cầu hóa và thế giới kỹ thuật số đã làm thay đổi sự liên kết cụ thể của nó về lãnh thổ mà nó bao trùm. Do đó, giáo xứ không còn là một không gian địa lý, mà là một không gian hiện hữu. Chính trong bối cảnh này, “tính linh hoạt” của giáo xứ xuất hiện, cho phép nó đáp ứng những yêu sách của thời đại và thích nghi việc mục vụ với các tín hữu và với lịch sử. Do đó, Huấn thị nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc canh tân sứ mệnh truyền giáo trong các cấu trúc của giáo xứ: tránh xa sự tự quy chiếu và loại bỏ sự giáo sĩ hóa, phải nhắm đến sự linh động thiêng liêng và cuộc hoán cải mục vụ dựa trên việc loan báo Lời Chúa, đời sống bí tích và chứng tá bác ái.

Kết

Đứng trước những thách đố của thời đại hôm nay, một thời đại mà mối tương giao giữa người với người đang bị khủng hoảng vì nghi kỵ, vì một lối sống hưởng thụ ích kỷ và không còn niềm tin, vì vậy cộng đoàn giáo xứ phải ý thức về sứ vụ mà Chúa đã trao phó, phải nỗ lực làm chứng để là dấu chỉ cho sự hiện diện của Thiên Chúa trên trần gian, phải lan tỏa niềm hy vọng của mình cho mọi người. Trong đường hướng này, các thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ phải là những nhân tố năng động, giàu sáng kiến, và trần đầy nhiệt huyết. Điều quan trọng, mỗi thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ phải là những yếu tố kiến tạo sự hiệp nhất trong giáo xứ, bởi sự chia rẽ sẽ là nguyên nhân mang lại những hiệu ứng tai hại cho công việc loan báo Tin Mừng, và làm cho cánh cửa truyền giáo bị khép lại, đánh mất niềm hy vọng của chúng ta đang hướng tới: được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.

Sự hiệp nhất yêu thương của cộng đoàn giáo xứ mang lại niềm hy vọng và niềm tin cho một thế giới đang chất đầy sự hỗn loạn, nhiễu nhương. Quả thật thế giới hôm nay thiếu vắng tình yêu và chân lý, sự thù hận và dối trá ngày càng lan tràn. Ở đâu sẽ mang lại cho cuộc sống một niềm hy vọng? Thưa chỉ có Đức Kitô, bởi vậy cộng đoàn giáo xứ phải nỗ lực mang Đức Kitô đến cho nhân loại hôm nay, bằng cách chiếu toả ánh sáng đức tin của mình, và thể hiện tình yêu thương của Đức Kitô ngay chính trong cộng đoàn giáo xứ. Giáo xứ phải được canh tân để trở thành một cộng đoàn kiên vững trong đức tin và sống động trong đức ái.

Để Đức Kitô đến với mọi người, cộng đoàn giáo xứ phải đi ra khỏi sự ươn lười, ích kỷ, sự nghi kỵ lẫn nhau và chỉ chú tâm xây dựng thành luỹ riêng tư của mình. “Tin Mừng không ngừng dạy chúng ta mạo hiểm vào những cuộc gặp gỡ trực diện với người khác, với sự hiện diện thể chất của họ vốn thách thức chúng ta, với nỗi đau và các lời kêu xin của họ, với niềm vui của họ lan toả sang chúng ta trong mối tương tác gần gũi và liên tục. Lòng tin đích thực vào Con Thiên Chúa nhập thể thì không thể tách rời khỏi sự tự hiến, tư cách thành viên của cộng đoàn, sự phục vụ, sự hoà giải với người khác. Bằng việc nhập thể, Con Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tới cuộc cách mạng của sự dịu dàng”, và chỉ có như thế niềm hy vọng của Đức Kitô mới thực sự được lan toả trong thời đại hôm nay, và giáo xứ là chứng nhân sống động cho niềm hy vọng này.

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 145 (Tháng 01 & 02 năm 2025)