Nhân kỷ niệm 100 năm (1925 – 2025) ngày ban hành Thông điệp Quas primas của Đức Giáo hoàng Piô XI về lễ Chúa Kitô vua, Ban Biên tập xin được giới thiệu bản dịch Việt ngữ của Thông điệp này do Tâm Bùi và Linh mục Phêrô Lê Minh Hải, OFM thực hiện.THÔNG ĐIỆP
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PIÔ XI
QUAS PRIMAS
VỀ LỄ CHÚA KITÔ VUA
GỬI ĐẾN CÁC HIỀN HUYNH ĐÁNG KÍNH CỦA TÔI:
CÁC THƯỢNG PHỤ, GIÁO CHỦ, TỔNG GIÁM MỤC,
GIÁM MỤC VÀ CÁC ĐẤNG BẢN QUYỀN KHÁC
ĐANG HIỆP THÔNG TRONG HÒA BÌNH VỚI TÔNG TÒA
Ngày 11 tháng 12, Năm thánh 1925
Gửi các Hiền huynh khả kính, lời chào và Phép lành Tông tòa.
Trong thông điệp đầu tiên gửi đến các giám mục của Giáo hội hoàn vũ khi khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình, tôi đã đề cập đến những nguyên nhân chính của những khó khăn mà nhân loại đang gánh chịu. Tôi còn nhớ đã nói rằng những điều ác muôn hình vạn trạng trên thế gian này là do phần đông nhân loại đã đẩy Chúa Giêsu Kitô và lề luật thánh thiện của Người ra khỏi đời sống của họ; rằng Người và lề luật ấy không có chỗ trong đời sống riêng tư cũng như trong chính trị; và tôi còn nói thêm rằng, chừng nào các cá nhân và các quốc gia còn từ chối quy phục triều đại của Đấng Cứu Thế, thì sẽ không có triển vọng thực sự về một nền hòa bình lâu bền giữa các dân tộc. Nhân loại phải tìm kiếm hòa bình của Đức Kitô trong Vương quốc của Ngài; và tôi đã hứa sẽ làm tất cả trong khả năng của tôi. Theo tôi thấy, trong Vương quốc của Đức Kitô, dường như không có cách nào khôi phục hòa bình một cách hiệu quả hoặc được thiết lập trên một nền tảng vững chắc hơn việc khôi phục Đế chế của Chúa chúng ta. Trong khi đó, tôi được dẫn dắt để nuôi hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn khi nhìn thấy sự quan tâm rộng rãi và sâu sắc hơn đối với Đức Kitô và Giáo hội của Người, Nguồn Cứu Độ duy nhất, một dấu hiệu rằng những người trước đây đã khinh miệt triều đại của Đấng Cứu Chuộc và tự loại mình ra khỏi Vương quốc của Người đang chuẩn bị, và thậm chí vội vã, trở lại thực hiện bổn phận vâng phục.
2. Biết bao biến cố đáng ghi nhớ và đầy ý nghĩa đã diễn ra trong Năm thánh này, và tất cả đều làm rạng rỡ vinh quang Chúa chúng ta – Vị Chúa và Vua, Đấng đã thiết lập Giáo hội.
3. Tại cuộc Triển lãm Truyền giáo mọi người đã hết sức cảm động khi thấy lòng sốt sắng ngày càng gia tăng nơi Giáo hội trong việc truyền bá vương quốc Thiên Chúa đến những vùng đất xa xôi nhất trên trái đất. Họ đã chứng kiến biết bao quốc gia được mang danh Công giáo nhờ công lao không mệt mỏi và sự hy sinh của các nhà thừa sai, và độ rộng lớn của những vùng đất vẫn chưa được đặt dưới ách dịu ngọt và cứu độ của Vua chúng ta. Tất cả những ai trong suốt Năm thánh đã đổ về thánh đô này dưới sự dẫn dắt của các giám mục hoặc linh mục của họ chỉ có một mục đích duy nhất – đó là để đền tội – và tại mộ các Tông đồ cũng như trước mặt tôi để hứa trung thành với triều đại của Chúa Kitô.
4. Một ánh sáng vinh quang còn rực rỡ hơn đã chiếu rọi vương quốc của Người, sau khi được chứng minh về đức hạnh anh hùng của họ, tôi đã nâng sáu vị giải tội và trinh nữ lên hàng hiển vinh trên bàn thờ. Đó là một niềm vui lớn lao, một sự an ủi lớn đã tràn ngập tâm hồn tôi khi tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, sắc lệnh của tôi được đám đông hân hoan tán dương qua bài thánh ca tạ ơn: Tu Rex gloriae Christe. Tôi đã thấy những con người và các dân tộc xa lìa Thiên Chúa, gây ra tranh chấp và bất hòa, hối hả trên con đường diệt vong và chết chóc, trong khi Giáo hội của Thiên Chúa tiếp tục công việc cung cấp lương thực cho đời sống thiêng liêng của con người, nuôi dưỡng và vun trồng từng thế hệ nam nữ dâng hiến cho Đức Kitô, trung thành và phục tùng Người nơi vương quốc trần thế, được Người mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Trời.
5. Hơn nữa, vì Năm thánh này đánh dấu kỷ niệm 1600 năm Công đồng Nicêa, tôi đã truyền lệnh cử hành biến cố đó, và đã thực hiện tại Vương cung Thánh đường Vatican. Có một lý do đặc biệt cho việc này, đó là vì Công đồng Nicêa đã xác định và đề xuất cho đức tin Công giáo tín điều về sự đồng bản thể của Con Một với Chúa Cha, và thêm vào Kinh Tin Kính những lời “Nước Người sẽ không bao giờ cùng”, qua đó khẳng định phẩm giá vương quyền của Đức Kitô.
6. Vậy nên, bởi Năm thánh này đã mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội để làm rạng rỡ vinh quang Vương Quyền của Đức Kitô, xét theo thẩm quyền Tông tòa, tôi nhận thấy cần đáp lại ước nguyện của đông đảo các hồng y, giám mục và anh chị em tín hữu, vốn đã được trình lên tôi cách riêng lẻ cũng như tập thể: đó là kết thúc Năm thánh này bằng việc ghi thêm vào Phụng vụ thánh một lễ kính đặc biệt dành cho Vương quyền của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vấn đề này, thưa các Hiền huynh đáng kính, thật là điều hết sức thân thiết với tâm hồn tôi, đến nỗi tôi muốn ngỏ với hiền huynh đôi lời về ý nghĩa của việc ấy. Sau này, chính các hiền huynh sẽ diễn giải cách thích hợp cho sự hiểu biết của các tín hữu về những điều tôi sắp nói liên quan đến Vương quyền của Đức Kitô, để cho lễ kính hằng năm mà tôi sẽ thiết lập được cử hành với nhiều hoa trái thiêng liêng và đem lại những hiệu quả tốt đẹp trong tương lai.
7. Từ lâu đã trở thành thông lệ phổ biến gọi Đức Kitô bằng danh xưng ẩn dụ là “Vua,” vì mức độ hoàn hảo mà Người vượt trội hơn mọi thụ tạo. Vì vậy, Người được nói rằng ngự trị “trong lòng mọi người,” nhờ sự sắc sảo của trí tuệ lẫn phạm vi tri thức, và cũng vì Người chính là Sự Thật, và từ Người mà toàn nhân loại phải vâng phục nhận lấy sự thật. Người cũng cai trị trong ý muốn của con người, vì trong Người, ý muốn nhân loại đã hoàn toàn và trọn vẹn vâng phục Thánh ý Thiên Chúa, và hơn nữa, nhờ ân sủng và soi dẫn của Người, Người hướng ý chí tự do của chúng ta để thúc đẩy chúng ta thực hiện những việc cao quý nhất. Người cũng là Vua của các tâm hồn, nhờ “tình thương vượt quá mọi trí hiểu” của Người. Và lòng nhân từ, nhân hậu của Người thu hút tất cả mọi người về với Người, vì chưa từng biết, cũng sẽ không bao giờ có, một con người nào được yêu thương nhiều và phổ quát như Chúa Giêsu Kitô. Nhưng nếu suy nghĩ sâu hơn về vấn đề này, chúng ta không thể không thấy rằng danh xưng và quyền lực của Vua cũng thuộc về Đức Kitô như con người theo nghĩa nghiêm ngặt và thích đáng. Bởi chỉ với tư cách là con người, Người mới có thể được nói rằng đã nhận từ Chúa Cha “quyền năng và vinh quang và một vương quốc,” vì Ngôi Lời Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha, có tất cả mọi sự chung với Ngài, và do đó tất yếu có quyền tối thượng và tuyệt đối trên mọi thụ tạo.
8. Chẳng phải chúng ta đọc thấy nhiều nơi trong Kinh thánh rằng Đức Kitô là Vua sao? Chính Người sẽ xuất phát từ Giuđa để cai trị, Người được Chúa Cha đặt làm Vua trên Sion, núi thánh của Người, và Người sẽ lấy các dân ngoại làm gia nghiệp, và các miền xa xôi của trái đất làm sở hữu của mình. Trong bài ca hôn lễ, nơi vị Vua tương lai của Israel được ca ngợi là một quân vương giàu có và quyền lực, chúng ta đọc thấy: “Ngôi báu Thiên Chúa tặng ban cho ngài sẽ trường tồn vạn kỷ, vương trượng ngài, vương trượng công minh”. Có nhiều đoạn tương tự, nhưng có một đoạn mà Đức Kitô được chỉ rõ hơn nữa. Ở đó tiên báo rằng vương quốc của Người sẽ vô biên, và sẽ được làm giàu bằng công lý và hòa bình: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất”.
9. Lời chứng của các ngôn sứ còn phong phú hơn nữa. Lời tiên tri của Isaia rất quen thuộc: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời”. Các ngôn sứ khác đồng ý với Isaia. Giêrêmia tiên báo “mầm giống công chính” từ nhà Đavít – Con của Đavít sẽ trị vì như Vua, “sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh.” Đanien cũng thông báo vương quốc mà Thiên Chúa trên trời sẽ thiết lập, “không bao giờ bị tiêu diệt, đến muôn đời nó sẽ đứng vững.” Và ông lại nói: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” Lời tiên tri của Dacaria về Vua nhân từ “ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” vào Giêrusalem như “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,” giữa tiếng hò reo của đám đông, đã được chính các thánh sử chứng thực là đã ứng nghiệm.
10. Chính giáo lý về Vương quyền của Chúa Kitô mà tôi đã tìm thấy trong Cựu ước còn được giảng dạy và khẳng định rõ ràng hơn nữa trong Tân ước. Khi loan báo cho Đức Trinh Nữ rằng người sẽ sinh một Con Trai, thiên sứ nói rằng: “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
11. Hơn nữa, chính Chúa Kitô tự mình nói về quyền uy vương quyền của Người: trong bài giảng cuối cùng của Người, nói về phần thưởng và hình phạt sẽ là phần rỗi vĩnh cửu của người công chính và kẻ bị nguyền rủa; trong câu trả lời với viên quan toà La Mã, người công khai hỏi Ngài có phải là Vua hay không; sau khi phục sinh, khi trao cho các Tông đồ sứ mạng giảng dạy và rửa tội cho muôn dân, Người đã nhân cơ hội xưng mình là Vua, xác nhận danh hiệu một cách công khai, và long trọng tuyên bố rằng mọi quyền năng đã được ban cho Người trên trời và dưới đất. Những lời này chỉ có thể được hiểu là để chỉ sự vĩ đại của quyền năng Người, phạm vi vô tận của vương quốc Người. Vậy thì có gì lạ khi Đấng mà Thánh Gioan gọi là “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian” lại xuất hiện trong thị kiến của Tông đồ về tương lai như Đấng “mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: “Vua các vua, Chúa các chúa”. Chúa Kitô chính là Đấng mà Chúa Cha “đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”; vì “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.”
12. Vậy thật là đúng đắn, xét theo giáo huấn chung của các sách thánh, rằng Giáo hội Công giáo, là vương quốc của Chúa Kitô trên trần gian, được định sẵn để truyền bá cho mọi người và mọi dân tộc, nên với mọi dấu hiệu tôn kính, chào đón Đấng Khởi xướng và Đấng Sáng lập mình trong Phụng vụ hằng năm như là Vua và là Chúa, và như Vua các vua. Thực vậy, Giáo hội đã dùng những danh xưng này, diễn đạt cùng một ý tưởng bằng sự đa dạng tuyệt vời của ngôn ngữ, cả trong các thánh vịnh cổ xưa lẫn trong các Sách lễ. Ngày nay, Giáo hội vẫn dùng chúng hàng ngày trong những lời cầu nguyện công khai dâng lên Thiên Chúa, và khi tiến dâng Hy lễ Con Chiên Vô tỳ vết. Sự hòa hợp hoàn hảo của Phụng vụ Đông phương với Phụng vụ của chúng ta trong lời ca tụng liên lỉ Chúa Kitô Vua một lần nữa chứng minh chân lý của định đề: Legem credendi lex statuit supplicandi, tức là chính phụng vụ ấn định quy luật cho điều chúng ta tin.
13. Nền tảng quyền năng và phẩm giá của Chúa chúng ta được Thánh Cyril thành Alexandria chỉ rõ một cách đúng đắn. Ngài nói: “Đức Kitô có quyền cai trị mọi thụ tạo, một quyền không bị cưỡng đoạt hay chiếm đoạt, nhưng thuộc về bản chất và bản tính của Người.” Vương quyền của Người được thiết lập trên mầu nhiệm hiệp nhất ngôi vị khôn tả. Từ đó, không những Chúa Kitô phải được các thiên thần và loài người thờ phượng, mà còn vì là Con Người, thiên thần và loài người phải phục tùng Người và công nhận vương quyền của Người; nhờ hiệp nhất ngôi vị, Chúa Kitô có quyền năng trên muôn loài. Nhưng một ý tưởng còn phải đem lại cho chúng ta niềm vui và an ủi lớn lao hơn nữa, đó là: Đức Kitô là Vua của chúng ta không chỉ do quyền tự nhiên mà còn do quyền thủ đắc, vì Người là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Nếu có ai quên những gì Đấng Cứu Chuộc đã chịu vì họ, có thể nhớ lại lời: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.” Chúng ta không còn thuộc về chính mình nữa, vì Đức Kitô đã chuộc chúng ta “với giá đắt”; chính thân xác chúng ta cũng là “các chi thể của Đức Kitô.”
14. Tôi xin tóm lược giải thích bản chất và ý nghĩa của quyền bính của Đức Kitô. Không cần phải nói nhiều, quyền bính ấy bao gồm ba quyền năng thiết yếu tạo nên sự làm chủ. Điều này đã được chứng minh rõ ràng qua các chứng từ Kinh thánh đã dẫn về quyền bá chủ toàn cõi của Đấng Cứu Chuộc chúng ta; hơn nữa, đây còn là một tín điều: Đức Giêsu Kitô được ban cho loài người, không chỉ là Đấng Cứu Chuộc, mà còn là Đấng lập luật, Đấng mà chúng ta phải vâng phục. Các Phúc âm không những kể rằng Người lập ra các giới răn, mà còn trình bày Người đang thực hiện việc lập luật ấy. Những ai tuân giữ các luật ấy bày tỏ lòng mến đối với vị Thầy Thần Linh của mình, và Người hứa rằng họ sẽ luôn ở trong tình thương của Người. Người đã nhận quyền xét xử từ Chúa Cha, khi dân Do Thái cáo buộc Người phạm luật Sabát vì chữa lành một người bệnh lạ lùng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử.” Trong quyền này bao hàm cả quyền thưởng phạt tất cả những người còn sống, vì quyền thưởng phạt không thể tách rời quyền xét xử. Quyền hành pháp cũng thuộc về Đức Kitô, bởi tất cả đều phải vâng theo mệnh lệnh của Người; không ai có thể thoát khỏi, cũng như không thể tránh các hình phạt mà Người đã ấn định.”
15. Vương quốc này mang tính thiêng liêng và liên quan đến những điều thuộc linh. Các trích dẫn Kinh thánh trên đã chứng minh rõ điều này, và chính hành động của Chúa Kitô cũng xác nhận. Nhiều lần, khi người Do Thái và cả các Tông đồ lầm tưởng rằng Đấng Kitô sẽ khôi phục quyền tự do và vương quốc Israel, Người đã bác bỏ và phủ nhận điều đó. Khi đám đông vây quanh Người với sự ngưỡng mộ và muốn tôn Người làm Vua, Người tránh nhận vinh dự và tìm sự an toàn bằng cách bỏ đi. Trước quan toà La Mã, Người tuyên bố rằng vương quốc của Người không thuộc về thế gian này. Các Tin mừng trình bày vương quốc này là nơi con người chuẩn bị bước vào bằng việc sám hối, và thực sự không thể vào được nếu không nhờ đức tin và phép rửa tội, dù là nghi thức bên ngoài, nhưng lại biểu thị và tạo ra sự tái sinh nội tâm. Vương quốc này đối lập với vương quốc của Satan và quyền lực bóng tối. Nó đòi hỏi các tín hữu tinh thần từ bỏ của cải và những thứ trần gian, và có một tinh thần nhân hậu. Họ phải khao khát công lý, và hơn thế nữa, phải biết từ bỏ mình và vác Thập giá.
16. Chúa Kitô, trong tư cách là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đã chuộc Hội thánh bằng chính máu của Người; như vị tư tế, Người đã dâng mình, và vẫn tiếp tục dâng mình làm hy lễ cho tội lỗi của chúng ta. Vậy chẳng phải rõ ràng, phẩm giá vương quyền của Người đồng thời tham dự vào cả hai chức vụ này sao?
17. Mặt khác, sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu nói rằng Chúa Kitô không có bất cứ quyền hành nào trong các vấn đề trần thế, vì nhờ quyền tối thượng trên mọi thụ tạo được Chúa Cha trao cho, tất cả mọi sự đều nằm trong quyền năng của Người. Tuy nhiên, trong cuộc sống trần gian, Người đã kiềm chế không thực thi quyền đó, và mặc dù chính Người không ham muốn hoặc quan tâm đến của cải trần gian, Người cũng không, và ngày nay cũng không, can thiệp vào những ai đang sở hữu chúng. Non eripit mortalia qui regna dat caelestia – Người ban vương quyền thiên quốc không lấy đi những gì thuộc về thế gian.
18. Như vậy, quyền bính của Đấng Cứu Chuộc chúng ta bao trùm tất cả nhân loại. Theo lời của vị tiền nhiệm của tôi, Đức Giáo hoàng Lêô XIII: “Vương quyền của Người không chỉ bao gồm quốc gia Công giáo, không chỉ những người đã chịu phép rửa tội, dù về lý mà thuộc Hội thánh, nhưng đã bị lạc hướng bởi lầm lỗi, hoặc đã bị tách ra khỏi Hội thánh vì ly giáo, mà còn bao gồm tất cả những ai ngoài đức tin Kitô; thế nên thực sự toàn thể nhân loại đều chịu quyền lực của Đức Giêsu Kitô.” Không có sự khác biệt nào trong vấn đề này giữa cá nhân và gia đình hay Nhà nước; vì tất cả con người, dù tập thể hay riêng lẻ, đều dưới quyền cai trị của Đức Kitô. Trong Người có ơn cứu rỗi cho mỗi cá nhân, trong Người có ơn cứu rỗi cho toàn xã hội. “Không có sự cứu rỗi nào khác, vì không có tên nào khác dưới trời được ban cho loài người mà nhờ đó chúng ta phải được cứu độ.” Người là tác giả của hạnh phúc và thịnh vượng đích thực cho mỗi con người và cho mọi dân tộc. “Vì một dân tộc chỉ hạnh phúc khi công dân của nó hạnh phúc. Dân tộc là gì nếu không phải là một tập hợp những con người sống hòa thuận?” Vì thế, nếu những nhà cầm quyền muốn gìn giữ quyền uy, thúc đẩy và gia tăng thịnh vượng cho đất nước, họ không thể bỏ qua nghĩa vụ công khai là tôn kính và vâng phục luật lệ của Đức Kitô. Những gì tôi đã nói hồi đầu triều đại giáo hoàng về sự suy giảm quyền lực công và thiếu tôn trọng quyền ấy, cũng đúng vào ngày nay: “Khi Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô bị loại khỏi đời sống chính trị, với quyền lực không xuất phát từ Thiên Chúa mà từ con người, nền tảng của quyền lực đó đã bị lấy mất, vì lý do chính tạo nên sự phân biệt giữa kẻ cai trị và người dân đã bị loại bỏ. Hậu quả là xã hội loài người đang chao đảo đến bờ vực sụp đổ, vì không còn nền tảng vững chắc và an toàn nữa.”
19. Một khi con người nhận ra, cả trong đời sống riêng tư lẫn công cộng, rằng Chúa Kitô là Vua, xã hội cuối cùng sẽ nhận được những phúc lành lớn lao của tự do thực sự, kỷ luật đúng đắn, hòa bình và hòa hợp. Chức vụ vương quyền của Chúa Giêsu trao cho quyền lực con người của các hoàng tử và nhà cầm quyền một ý nghĩa tôn giáo; nó làm cho bổn phận vâng phục của công dân trở nên cao quý. Chính vì lý do này mà Thánh Phaolô, khi khuyên dạy các người vợ tôn kính Chúa Kitô nơi chồng mình, và nô lệ tôn trọng Chúa Kitô nơi chủ của họ, đã cảnh báo họ phải vâng phục những người ấy không phải như con người, mà như những người thay thế Chúa Kitô; vì không phù hợp khi những con người được Chúa Kitô cứu chuộc lại phục vụ các đồng loại của mình. “Các ngươi đã được chuộc bằng một giá cao; đừng trở thành nô lệ của loài người.” Nếu các hoàng tử và quan tòa được bầu một cách đúng đắn nhận thức rằng họ cai trị, không phải theo quyền riêng của mình, mà theo ủy quyền và thay mặt Vua Thiên Chúa, họ sẽ thi hành quyền lực một cách đạo đức và khôn ngoan, họ sẽ lập pháp và thực thi pháp luật, luôn hướng tới lợi ích chung và phẩm giá con người của người dân. Kết quả sẽ là hòa bình và an ổn bền vững, vì sẽ không còn nguyên nhân nào gây bất mãn. Người ta sẽ nhìn thấy nơi vua hay nhà cai trị của mình những người cũng như họ, có thể chưa xứng đáng hoặc dễ bị chỉ trích, nhưng họ sẽ không từ chối vâng phục nếu nhận ra trong họ quyền lực của Chúa Kitô là Thiên Chúa và là Con người. Hòa bình và hòa hợp cũng sẽ được thiết lập; vì với sự lan tỏa và mở rộng toàn cầu của vương quốc Chúa Kitô, con người sẽ ngày càng nhận thức rõ hơn mối liên kết gắn bó họ với nhau, và vì vậy nhiều xung đột sẽ được ngăn ngừa hoàn toàn hoặc ít nhất mức độ cay đắng của chúng sẽ giảm đi.
20. Nếu vương quốc Chúa Kitô, như lẽ phải, bao trùm tất cả các dân tộc dưới quyền cai trị của mình, thì dường như không có lý do gì để chúng ta tuyệt vọng về việc thấy được hòa bình mà Vua Hòa bình đã đến mang lại cho trần gian – Đấng đến để hòa giải mọi sự, Đấng đến không phải để được phục vụ mà để phục vụ, Đấng, mặc dù là Chúa của muôn loài, đã hiến thân cho chúng ta làm gương mẫu của khiêm nhường, và với luật căn bản của Ngài đã kết hợp điều răn về bác ái; Ngài cũng đã nói: “Ách ta êm ái và gánh ta nhẹ nhàng.” Ôi, hạnh phúc biết bao nếu tất cả mọi người, cá nhân, gia đình và dân tộc, đều để mình được cai trị bởi Chúa Kitô! “Rồi cuối cùng,” như lời vị tiền nhiệm của tôi, Đức Giáo hoàng Lêô XIII, đã nói cách đây 25 năm với các giám mục của Giáo hội hoàn vũ, “rồi cuối cùng nhiều tai họa sẽ được chữa lành; luật pháp sẽ lấy lại uy quyền trước kia; hòa bình với mọi phúc lành sẽ được phục hồi. Con người sẽ cất gươm và bỏ vũ khí xuống khi tất cả tự do thừa nhận và vâng phục quyền lực của Chúa Kitô, và mọi miệng lưỡi sẽ tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô đang hiển vinh cùng Thiên Chúa Cha.”
21. Để những phúc lành này có thể dồi dào và lâu bền trong xã hội Kitô giáo, cần thiết rằng vương quyền của Đấng Cứu Thế của chúng ta được nhận biết và hiểu rõ càng rộng rãi càng tốt, và để đạt mục đích này, không gì tốt hơn là thiết lập một lễ riêng kính mừng Vương quyền của Chúa Kitô. Vì con người được dạy dỗ về các chân lý đức tin, và được dẫn tới nhận thức sâu sắc hơn về niềm vui nội tâm của đời sống tôn giáo qua việc cử hành hằng năm các mầu nhiệm thánh thiện, hiệu quả hơn bất kỳ tuyên bố chính thức nào về giáo huấn của Hội thánh. Những tuyên bố ấy thường chỉ đến được với một số ít tín hữu, đặc biệt là những người hiểu biết; còn các lễ hội chạm tới tất cả; tuyên bố nói một lần, lễ hội nói hàng năm – thực ra, vĩnh viễn. Giáo huấn của Giáo hội ảnh hưởng chủ yếu đến trí óc; các ngày lễ ảnh hưởng cả trí óc lẫn con tim, và có tác dụng tốt cho toàn bộ bản chất con người. Con người bao gồm thân xác và linh hồn, và cần những lễ hội bên ngoài này để các nghi lễ thiêng liêng, với tất cả vẻ đẹp và sự đa dạng của chúng, khích lệ người ta uống sâu hơn từ nguồn giảng dạy của Thiên Chúa, để biến nó thành một phần của chính mình, và sử dụng nó có lợi cho đời sống thiêng liêng của mình.
22. Thật vậy, lịch sử cho chúng ta thấy rằng trong suốt các thời đại, những lễ hội này đã được thiết lập nối tiếp nhau tùy theo nhu cầu hoặc lợi ích của dân Chúa: khi họ cần sức mạnh để đối mặt với nguy cơ chung, khi họ bị tấn công bởi những dị giáo ngấm ngầm, khi họ cần được khích lệ để suy nghĩ sốt sắng về một mầu nhiệm đức tin hay một ân phúc thiêng liêng nào đó. Như vậy, vào những ngày đầu của kỷ nguyên Kitô giáo, khi dân Chúa đang chịu sự bách hại tàn nhẫn, việc tôn kính các vị tử đạo đã được bắt đầu, theo lời Thánh Augustinô, “để các lễ hội của các vị tử đạo có thể khích lệ con người đến ơn tử đạo.” Những vinh dự phụng vụ dành cho các thừa sai, trinh nữ và goá phụ đã đem lại kết quả kỳ diệu trong việc tăng thêm lòng hăng hái sống đức hạnh, điều cần thiết ngay cả trong thời bình. Nhưng còn hiệu quả hơn nữa là các lễ hội được thiết lập để tôn kính Đức Trinh nữ Maria. Nhờ đó, con người không những lớn lên trong lòng sùng kính với Mẹ Thiên Chúa như một Đấng bầu cử luôn hiện diện, mà còn trong tình yêu dành cho Mẹ như một người mẹ được Đấng Cứu Thế để lại cho họ. Trong những ân phúc phát sinh từ sự tôn kính công khai và hợp pháp dành cho Đức Mẹ và các thánh, không thể không kể đến việc Giáo hội được miễn nhiễm hoàn toàn và lâu dài khỏi sai lầm và dị giáo. Chúng ta có thể ngưỡng mộ trong điều này sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa Quan phòng, Đấng, luôn mang lại điều thiện từ điều ác, đã từ thời này sang thời khác để cho đức tin và lòng sốt sắng của con người yếu đi, và cho phép chân lý Công giáo bị tấn công bởi những giáo thuyết sai lầm, nhưng luôn với kết quả là sự thật sau đó lại tỏa sáng rực rỡ hơn, và đức tin của con người, được đánh thức từ cơn mê ngủ, lại bừng lên mạnh mẽ hơn trước.
23. Những lễ hội được đưa vào phụng vụ trong những năm gần đây cũng có nguồn gốc tương tự, và đã mang lại kết quả tương tự. Khi lòng tôn kính và sùng kính đối với Bí tích Thánh Thể trở nên nguội lạnh, lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được thiết lập, để qua các cuộc rước trọng thể và các giờ cầu nguyện kéo dài tám ngày, mọi người có thể được dẫn trở lại để công khai tôn vinh Chúa Kitô. Tương tự, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu được thiết lập vào thời điểm con người bị áp bức bởi sự nghiêm khắc u buồn của chủ nghĩa Jansen, điều đã làm lòng họ trở nên lạnh nhạt, và ngăn họ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa và hy vọng cứu rỗi.
24. Nếu tôi định rằng toàn thể thế giới Công giáo phải tôn kính Chúa Kitô là Vua, tôi sẽ đáp ứng nhu cầu của thời đại hiện nay, đồng thời cung cấp một phương thuốc tuyệt vời cho căn bệnh đang lan tràn trong xã hội. Tôi muốn nhắc đến căn bệnh bài giáo sĩ, với những sai lầm và hoạt động bất kính của nó. Thần khí xấu xa này, như các Hiền huynh đáng kính biết rõ, không xuất hiện trong một ngày; nó đã ẩn mình lâu dài dưới bề mặt xã hội. Quyền uy của Chúa Kitô trên tất cả các dân tộc đã bị từ chối. Quyền mà Giáo hội có từ chính Chúa Kitô, để dạy dỗ loài người, để lập luật, để cai quản các dân tộc trong tất cả những gì liên quan đến ơn cứu độ đời đời của họ, quyền đó đã bị phủ nhận. Dần dần, tôn giáo của Chúa Kitô được ví như những tôn giáo giả và bị đặt một cách nhục nhã ngang bằng với chúng. Nó sau đó bị đặt dưới quyền lực của nhà nước và được dung thứ nhiều hay ít tùy theo ý muốn của các hoàng đế và quan quyền. Một số người còn đi xa hơn, muốn thiết lập thay thế tôn giáo của Thiên Chúa bằng một tôn giáo tự nhiên, gồm một số tình cảm bẩm sinh trong lòng người. Thậm chí có những dân tộc nghĩ rằng họ có thể bỏ qua Thiên Chúa, và tôn giáo của họ nên bao gồm sự bất kính và lơ là Thiên Chúa. Sự nổi loạn của cá nhân và các quốc gia chống lại quyền uy của Chúa Kitô đã dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Tôi đã than tiếc điều này trong Tông thư Ubi arcano; hôm nay tôi cũng than tiếc: những mầm mống chia rẽ được gieo rắc khắp nơi; những mối thù hằn và ganh ghét giữa các dân tộc, vẫn còn cản trở quá nhiều công việc hòa bình; lòng tham vô độ, thường được che đậy dưới vỏ bọc tinh thần công cộng và yêu nước, và phát sinh vô số tranh chấp cá nhân; sự ích kỷ mù quáng và thái quá, khiến con người chỉ tìm kiếm tiện lợi và lợi ích riêng, và đo mọi sự bằng những tiêu chuẩn đó; không có hòa bình trong gia đình, vì con người quên hoặc bỏ qua bổn phận; sự thống nhất và ổn định của gia đình bị suy yếu; xã hội, nói chung, bị lung lay tận nền tảng và trên con đường dẫn đến hủy diệt. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng lễ Chúa Kitô Vua, mà trong tương lai sẽ được cử hành hàng năm, có thể thúc đẩy sự trở lại của xã hội với Đấng Cứu Thế đầy lòng thương xót của chúng ta. Trách nhiệm của các tín hữu Công giáo là làm tất cả những gì có thể để mang lại kết quả tốt đẹp này. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ không có địa vị trong xã hội cũng như quyền uy mà những người mang ngọn đuốc chân lý đáng ra phải có. Tình trạng này có thể được giải thích phần nào bởi sự chậm chạp và nhút nhát của những người tốt, những người ngại va chạm hoặc chỉ chống trả yếu ớt; do đó, kẻ thù của Giáo hội trở nên táo bạo hơn trong các cuộc tấn công. Nhưng nếu các tín hữu hiểu chung rằng họ luôn phải dũng cảm chiến đấu dưới ngọn cờ của Chúa Kitô Vua của họ, được khích lệ bởi nhiệt huyết tông đồ, thì họ sẽ cố gắng đem những trái tim cay đắng và xa cách trở lại với Chúa, và sẽ dũng cảm bảo vệ quyền lợi của Ngài.
25. Hơn nữa, việc cử hành hàng năm và phổ quát lễ Chúa Kitô Vua sẽ hướng sự chú ý đến những tai hại mà chủ nghĩa chống giáo quyền đã gây ra cho xã hội, khi nó lôi kéo con người xa rời Chúa Kitô, đồng thời cũng góp phần nhiều trong việc khắc phục những tai hại ấy. Khi các dân tộc xúc phạm danh Chúa Cứu Thế yêu dấu của chúng ta bằng cách loại bỏ mọi nhắc đến Ngài trong các hội nghị và nghị viện, chúng ta càng phải công khai tuyên xưng phẩm giá và quyền uy của Ngài, càng phải khẳng định quyền lợi của Ngài một cách phổ quát hơn.
26. Con đường đã được chuẩn bị một cách hạnh phúc và đầy sự quan phòng cho việc cử hành lễ này kể từ cuối thế kỷ trước. Ai cũng biết rằng việc sùng kính này đã là chủ đề của những nghiên cứu uyên bác trong nhiều cuốn sách xuất bản khắp nơi trên thế giới, viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Vương quyền và uy lực của Chúa Kitô đã được công nhận trong phong tục đạo đức, được nhiều gia đình thực hành, là hiến dâng chính mình cho Thánh Tâm Chúa Giêsu; không chỉ các gia đình thực hiện việc hiến dâng này, mà cả các dân tộc và vương quốc cũng vậy. Thực tế, toàn thể nhân loại đã được Đức Giáo hoàng Lêô XIII, trong Năm thánh 1900, hiến dâng cho Thánh Tâm Chúa. Cũng cần lưu ý rằng nhiều việc đã được thực hiện để công nhận quyền uy của Chúa Kitô trên xã hội qua các Đại hội Thánh Thể thường xuyên diễn ra trong thời đại chúng ta. Những Đại hội này tạo cơ hội cho giáo dân của từng giáo phận, địa hạt hay quốc gia, và cho cả thế giới, cùng nhau sùng kính và thờ lạy Chúa Kitô Vua ẩn hiện dưới các hình Thánh Thể. Qua các bài giảng tại các cuộc họp và trong các nhà thờ, qua việc thờ lạy công khai Bí tích Thánh Thể và các cuộc rước trọng thể, con người cùng hiệp nhất trong việc tôn vinh Chúa Kitô, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho họ làm Vua. Chính nhờ sự soi dẫn thần linh mà dân Chúa đem Ngài ra khỏi nơi ẩn mình thầm lặng trong nhà thờ, và rước Ngài đi qua các đường phố của thành phố, để Đấng mà con người từng từ chối tiếp nhận khi Ngài đến với những người của Ngài, giờ đây được nhận đầy đủ quyền uy vương giả của mình.
27. Để thực hiện trọn vẹn kế hoạch mà tôi đã đề cập, Năm thánh, hiện đang tiến dần đến kết thúc, mang đến cơ hội tốt nhất có thể. Trong năm này, Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã nâng tâm trí và con tim của các tín hữu lên để suy ngắm những ân phúc trên trời vượt quá mọi hiểu biết, hoặc phục hồi họ một lần nữa trong ân sủng của Ngài, hoặc khích lệ họ một lần nữa nỗ lực vươn tới những ơn cao quý hơn, đồng thời đặt đôi chân họ vững chắc hơn trên đường lối công chính. Do đó, dù tôi xét đến biết bao lời cầu nguyện đã được gửi đến tôi, hay nhìn vào những sự kiện của Năm thánh vừa qua, tôi có mọi lý do để nghĩ rằng thời điểm mong đợi cuối cùng đã đến để truyền rằng Chúa Kitô được sùng kính bằng một lễ đặc biệt như Vua của toàn nhân loại. Trong năm này, như tôi đã nói ở đầu Thư này, Vị Vua Thiên Chúa, thật kỳ diệu trong mọi việc Ngài làm, đã được tôn vinh rực rỡ, vì một đoàn quân khác của Ngài đã được thêm vào hàng ngũ các thánh. Trong năm này, nhân loại đã chứng kiến những việc lạ lùng và những công trình kỳ lạ, từ đó họ hiểu và ngưỡng mộ những chiến thắng mà các nhà thừa sai đạt được trong công cuộc rao truyền vương quốc của Ngài. Trong năm này, qua việc long trọng cử hành kỷ niệm 1600 năm Công đồng Nicêa, tôi đã tưởng niệm việc định nghĩa về thần tính của Ngôi Lời Nhập Thể, nền tảng cho vương quyền của Chúa Kitô trên toàn nhân loại.
28. Do đó, với thẩm quyền Tông tòa, tôi thiết lập lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để được cử hành hàng năm trên toàn thế giới vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười – tức Chúa nhật liền trước lễ Các thánh. Tôi cũng truyền rằng việc hiến dâng nhân loại cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, mà vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Giáo hoàng Piô X, đã truyền phải làm mới hàng năm, cũng được thực hiện hàng năm vào ngày đó. Tuy nhiên, trong năm nay, tôi muốn lễ này được cử hành vào ngày 31 của tháng, ngày mà tôi sẽ long trọng cử hành để tôn vinh vương quyền của Chúa Kitô, và truyền rằng việc hiến dâng này cũng được thực hiện ngay trước sự hiện diện của tôi. Tôi thấy rằng không có cách nào thích hợp hơn để kết thúc Năm thánh này, cũng không có cách nào tốt hơn để biểu lộ lòng biết ơn của tôi và của toàn thế giới Công giáo đối với Chúa Kitô, Vị Vua bất tử của muôn đời, về những ơn phúc đã tuôn đổ xuống cho tôi, cho Giáo hội và cho toàn thế giới Công giáo trong thời gian thánh thiêng này.
29. Các Hiền huynh khả kính, tôi không cần phải giải thích dài dòng lý do tại sao tôi đã truyền rằng lễ Chúa Kitô Vua phải được cử hành, bên cạnh những lễ khác trong đó phẩm giá vương quyền của Ngài đã được biểu thị và tôn kính. Chỉ cần lưu ý rằng, mặc dù trong tất cả các lễ của Chúa chúng ta, đối tượng của sự thờ phượng là Chúa Kitô, song đối tượng hình thức của các lễ đó vẫn hoàn toàn khác với danh hiệu và phẩm giá vương quyền của Ngài. Tôi đã truyền lễ này được cử hành vào một Chúa nhật để không chỉ giáo sĩ thực hiện bổn phận của mình bằng việc cử hành Thánh lễ và đọc Phụng vụ Các giờ, mà còn để giáo dân, được giải phóng khỏi những công việc thường nhật, có thể trong tinh thần thánh thiện vui mừng, tỏ bày trọn vẹn sự vâng phục và thần phục đối với Chúa Kitô. Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười dường như là thời điểm thuận tiện nhất cho mục đích này, vì nó nằm ở cuối năm phụng vụ, và do đó lễ Chúa Kitô Vua đặt vinh quang đỉnh cao lên các mầu nhiệm đời sống Chúa Kitô đã được tưởng niệm trong năm, và trước khi cử hành chiến thắng của tất cả các thánh, chúng ta công bố và tán dương vinh quang của Đấng chiến thắng trong tất cả các thánh và tất cả những người được tuyển chọn. Hãy xem đó là bổn phận và trách nhiệm của các Hiền huynh khả kính, để đảm bảo rằng các bài giảng được giảng dạy cho dân chúng ở mọi giáo xứ, dạy họ ý nghĩa và tầm quan trọng của lễ này, để họ sắp xếp đời sống mình xứng đáng là những thần dân trung thành và vâng phục của Vị Vua Thiên Chúa.
30. Bây giờ, các Hiền huynh khả kính, khi kết thúc bức thư này, tôi xin tóm lược ngắn gọn những ân phúc mà tôi hy vọng và cầu nguyện sẽ tuôn đổ xuống Giáo hội, xã hội, và từng tín hữu, như kết quả của việc sùng kính công khai Vương quyền của Chúa Kitô.
31. Khi chúng ta tôn kính phẩm giá vương quyền của Chúa Kitô, chắc chắn con người sẽ được nhắc nhở rằng Giáo hội, được Chúa Kitô thiết lập như một xã hội trọn vẹn, có quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm đối với sự tự do hoàn toàn, không thể bị quyền lực nhà nước chi phối; và trong việc thực hiện nhiệm vụ mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội là dạy dỗ, cai quản, và hướng dẫn những ai thuộc vương quốc Chúa Kitô đến hạnh phúc đời đời, Giáo hội không thể chịu sự thống trị của bất kỳ quyền lực bên ngoài nào. Nhà nước có bổn phận phải mở rộng tự do tương tự cho các dòng tu và cộng đoàn nam nữ, những người mang đến sự giúp đỡ vô giá cho các giám mục của Giáo hội bằng việc lao động để mở rộng và thiết lập vương quốc Chúa Kitô. Bằng những lời khấn thánh thiện, họ chiến đấu chống lại ba cám dỗ của thế gian; bằng việc tuyên xưng một đời sống hoàn hảo hơn, họ làm cho sự thánh thiện mà Đấng sáng lập thần linh của Giáo hội muốn trở thành dấu ấn và đặc trưng của Giáo hội trở nên nổi bật và dễ nhận thấy hơn trong mắt mọi người.
32. Các quốc gia sẽ được nhắc nhở qua việc cử hành hàng năm của lễ này rằng không chỉ các cá nhân riêng lẻ, mà cả các lãnh đạo và hoàng thân, đều có bổn phận tôn kính và vâng phục công khai Chúa Kitô. Lễ này sẽ gợi nhắc họ về ngày phán xét cuối cùng, nơi Chúa Kitô, Đấng đã bị loại bỏ khỏi đời sống công cộng, bị khinh miệt, lãng quên và phớt lờ, sẽ trừng phạt nghiêm khắc những xúc phạm đó; vì phẩm giá vương quyền của Ngài đòi hỏi Nhà nước phải xem xét các điều răn của Thiên Chúa và các nguyên tắc Kitô giáo, cả trong việc lập pháp và thi hành công lý, cũng như trong việc cung cấp cho giới trẻ một nền giáo dục luân lý vững chắc.
33. Hơn nữa, tín hữu khi suy ngẫm về những chân lý này sẽ nhận được nhiều sức mạnh và can đảm, giúp họ hình thành cuộc sống theo lý tưởng Kitô hữu chân chính. Nếu Chúa chúng ta được trao mọi quyền lực trên trời và dưới đất; nếu mọi người, được chuộc bằng máu quý giá của Ngài, bởi quyền mới đều phải phục thuộc dưới quyền thống trị của Ngài; nếu quyền lực này bao trùm tất cả mọi người, thì rõ ràng không một khả năng nào của chúng ta được miễn trừ khỏi vương quyền của Ngài. Ngài phải cai trị trong tâm trí chúng ta, nơi phải tuân phục trọn vẹn và tin tưởng vững chắc vào các chân lý mặc khải và giáo lý của Chúa Kitô. Ngài phải cai trị trong ý chí chúng ta, nơi phải tuân theo các luật lệ và giới răn của Thiên Chúa. Ngài phải cai trị trong trái tim chúng ta, nơi phải từ bỏ những dục vọng tự nhiên và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và bám víu chỉ một mình Ngài. Ngài phải cai trị trong thân xác và các chi thể của chúng ta, nơi phải trở thành công cụ cho sự thánh hóa nội tâm của linh hồn, hay theo lời của Tông đồ Phaolô, làm khí cụ công chính đối với Thiên Chúa. Nếu tất cả những chân lý này được trình bày cho tín hữu suy ngẫm, chúng sẽ trở thành một động lực mạnh mẽ hướng tới sự thánh thiện. Tôi tha thiết mong rằng, những ai ngoài đoàn chiên sẽ tìm kiếm và nhận lấy ách dịu ngọt của Chúa Kitô, và chúng ta, nhờ ân sủng Thiên Chúa là thành viên của gia đình đức tin, sẽ mang ách ấy không như gánh nặng nhưng với niềm vui, với tình yêu, với lòng sùng mộ; rằng sau khi sống đời mình theo các luật lệ của vương quốc Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặt hái trọn vẹn hoa trái tốt, và được Chúa Kitô coi là đầy tớ tốt lành và trung tín, để được hưởng phần chia hạnh phúc và vinh quang đời đời cùng Ngài trong vương quốc thiên thượng của Ngài.
34. Các Hiền huynh khả kính, xin cho lá thư này là dấu chỉ tình yêu phụ tử của Cha chúng ta dành cho các Hiền huynh khi Lễ Giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô đang gần kề; và xin đón nhận Phép lành Tông toà như một lời bảo đảm của ơn phúc thiêng liêng, mà với lòng yêu mến, tôi ban cho các Hiền huynh, cho hàng giáo sĩ, và cho đoàn chiên của các Hiền huynh.
Ban hành tại Đền Thánh Phêrô, Rôma, ngày 11 tháng 12, Năm thánh 1925, năm thứ tư triều giáo hoàng của tôi.
GIÁO HOÀNG PIÔ XI
Tâm Bùi
và Lm. Phêrô Lê Minh Hải, OFM
Chuyển ngữ từ: vatican.va