Sau đây là bản dịch Việt ngữ Thông điệp Humanae Vitae (Sự sống con người) của Đức Giáo hoàng Phaolô VI về việc điều hòa sinh sản đúng đắn trong đời sống hôn nhân Kitô giáo. Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh, Ban Mục vụ Giáo phận Đà Lạt, chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Ý: Pontificio Consiglio per la Famiglia, Sessualità umana: verità e significato, orientamenti educativi in famiglia; Trích trong quyển: Enchiridion della Famiglia; Documenti Magisteriali e Pastorali su Famiglia e Vita; 1965 – 2004; A cura del Pontificio Consiglio per la Famiglia. Trang 17 – 38.
THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI
HUMANAE VITAE (SỰ SỐNG CON NGƯỜI)
Về việc điều hòa sinh sản đúng đắn
Ngày 25 tháng 7 năm 1968
DẪN NHẬP
1. Nhiệm vụ hết sức hệ trọng trong việc truyền sinh sự sống con người, nhờ đó đôi vợ chồng trở thành những cộng tác viên tự do và có trách nhiệm của Thiên Chúa Tạo Hóa, từ xưa đến nay luôn là nguồn vui lớn lao đối với họ; tuy nhiên, những niềm vui ấy đôi khi lại đi kèm với không ít khó khăn và nỗi ưu phiền.
Việc chu toàn nhiệm vụ này, trong mọi thời đại, vẫn luôn đặt ra cho lương tâm của các đôi vợ chồng Kitô hữu những vấn đề hệ trọng. Tuy nhiên, với sự tiến triển gần đây của xã hội loài người, đã xuất hiện những thay đổi sâu rộng, làm nảy sinh những vấn đề mới mà Hội Thánh không thể làm ngơ, vì đây là những vấn đề liên hệ mật thiết đến đời sống và hạnh phúc của con người.
I. NHỮNG KHÍA CẠNH MỚI CỦA VẤN ĐỀ VÀ THẨM QUYỀN CỦA HUẤN QUYỀN
2. Những biến chuyển vừa trọng đại vừa đa dạng đã thực sự xuất hiện trong đời sống nhân loại. Trước hết là hiện tượng phát triển dân số nhanh chóng, khiến nhiều người lo ngại rằng dân số thế giới đang gia tăng vượt quá khả năng cung ứng nguồn tài nguyên cần thiết cho sinh hoạt, dẫn đến sự túng thiếu ngày càng gia tăng nơi nhiều gia đình và các dân tộc đang phát triển. Vì thế, các vị hữu trách trong xã hội dễ bị cám dỗ phải đối phó với mối nguy này bằng những biện pháp quyết liệt hơn. Hơn nữa, không chỉ các điều kiện lao động và cư trú, mà cả những đòi hỏi ngày càng gia tăng trong lãnh vực kinh tế và giáo dục và đào luyện thanh thiếu niên, ngày nay thường khiến cho việc nuôi dưỡng xứng hợp một gia đình đông con trở nên khó khăn.
Người ta cũng ghi nhận một sự biến chuyển sâu xa, không chỉ trong cách nhìn về phẩm giá và vai trò của người phụ nữ trong xã hội, mà còn trong việc lượng giá tình yêu phu thê trong đời sống hôn nhân, cũng như trong việc đánh giá ý nghĩa các hành vi vợ chồng dưới ánh sáng của tình yêu ấy.
Sau cùng, điều đặc biệt cần được lưu tâm là: con người đã đạt được những tiến bộ kỳ diệu trong việc chế ngự và tổ chức hợp lý các sức mạnh của thiên nhiên, đến mức họ đang nỗ lực mở rộng quyền kiểm soát ấy lên cả bản thân mình: từ thân xác, đời sống tâm lý, đời sống xã hội, và thậm chí cả những định luật vốn chi phối việc truyền sinh sự sống.
3. Tình trạng hiện nay đã làm phát sinh những vấn đề mới. Người ta đặt câu hỏi: xét đến các điều kiện sống hiện tại, cũng như ý nghĩa mà các hành vi vợ chồng mang lại cho sự hòa hợp và trung tín giữa đôi vợ chồng, liệu có nên xét lại các quy tắc luân lý hiện hành, nhất là khi người ta cho rằng những quy tắc ấy không thể tuân giữ được nếu không có những hy sinh đôi khi mang tính anh hùng?
Người ta cũng tự hỏi: nếu áp dụng “nguyên tắc toàn thể” vào lãnh vực này, liệu có thể chấp nhận rằng một ý hướng nhằm điều hòa sinh sản cách tiết độ và hợp lý lại có thể biến một hành vi vốn gây ra sự vô sinh thể lý thành một hành vi hợp pháp và khôn ngoan không? Nói cách khác, liệu có thể chủ trương rằng mục đích sinh sản không nhất thiết phải gắn liền với từng hành vi riêng lẻ, mà thuộc về toàn thể đời sống hôn nhân? Một vấn đề khác cũng được nêu lên: với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của con người thời nay, phải chăng đã đến lúc nên giao phó việc truyền sinh cho lý trí và ý chí của con người, hơn là để nó hoàn toàn phụ thuộc vào các nhịp sinh học của thân xác?
4. Những vấn đề vừa nêu trên đây đòi hỏi nơi Huấn Quyền của Hội Thánh một sự suy tư mới mẻ và sâu xa hơn về các nguyên tắc của giáo huấn luân lý liên quan đến hôn nhân, một giáo huấn được đặt nền tảng trên luật tự nhiên, được ánh sáng Mặc Khải soi dẫn và làm phong phú thêm.
Không một tín hữu nào muốn phủ nhận rằng việc giải thích luật luân lý tự nhiên cũng thuộc về thẩm quyền chính thức của Huấn Quyền Hội Thánh. Quả thật, không thể nghi ngờ gì – như các vị tiền nhiệm của chúng tôi đã nhiều lần khẳng định – rằng chính Đức Giêsu Kitô, khi trao ban quyền năng thần linh của Người cho Thánh Phêrô và các Tông Đồ, và khi sai các ngài đi giảng dạy các giới răn của Người cho muôn dân, đã thiết lập các ngài làm những người gìn giữ và giải thích đích thực toàn thể luật luân lý – nghĩa là không chỉ luật Phúc Âm, mà cả luật tự nhiên. Thật vậy, luật tự nhiên chính là sự biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa, và việc trung thành tuân giữ luật ấy cũng là điều kiện cần thiết để đạt tới ơn cứu độ đời đời.
Chính trong sứ mạng ấy, Hội Thánh luôn luôn – và cách đầy đủ hơn trong thời đại gần đây – đã ban hành giáo huấn thích hợp, cả về bản chất của hôn nhân, về việc sử dụng đúng đắn các quyền lợi phu thê, cũng như về các bổn phận luân lý của đôi vợ chồng.
5. Chính vì ý thức sâu xa về sứ mạng được trao phó, chúng tôi đã xác nhận và mở rộng Ủy ban nghiên cứu mà vị tiền nhiệm khả kính của chúng tôi, Đức Gioan XXIII, đã thiết lập vào tháng Ba năm 1963. Ủy ban này, ngoài việc quy tụ nhiều chuyên gia thuộc các ngành liên hệ đến vấn đề này, còn có sự tham dự của một số đôi vợ chồng. Mục tiêu của Ủy ban không chỉ là thu thập các ý kiến về những vấn đề mới liên quan đến đời sống hôn nhân, đặc biệt là việc điều hòa sinh sản cách chính đáng, mà còn nhằm cung cấp những dữ liệu thích hợp để Huấn Quyền Hội Thánh có thể đưa ra một phán quyết xứng hợp với những kỳ vọng chính đáng, không chỉ của các tín hữu, mà còn của dư luận toàn cầu.
Các công trình nghiên cứu của các chuyên gia, cùng với những nhận định và lời khuyên sau đó từ nhiều vị huynh đệ trong hàng Giám mục – một phần được tự nguyện gửi đến, một phần do chúng tôi thỉnh cầu – đã giúp chúng tôi có thể cân nhắc cách cẩn trọng hơn tất cả các khía cạnh của vấn đề phức tạp này. Vì thế, từ tận đáy lòng, chúng tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu xa đến tất cả những ai đã cộng tác trong công trình này.
6. Tuy nhiên, chúng tôi không thể xem các kết luận mà Ủy ban đã đạt được như những phán quyết chắc chắn và dứt khoát, đến mức có thể miễn trừ chúng tôi khỏi bổn phận phải tự mình cân nhắc một vấn đề hệ trọng như thế. Nhất là vì ngay trong nội bộ Ủy ban cũng chưa đạt được sự đồng thuận đầy đủ về các chuẩn mực luân lý cần được đề xuất, và đặc biệt là vì đã xuất hiện một số hướng giải quyết tách rời khỏi giáo huấn luân lý về hôn nhân – một giáo huấn mà Huấn Quyền Hội Thánh vẫn kiên định công bố từ trước đến nay.
Vì những lý do đó, sau khi đích thân xem xét hết sức cẩn trọng các tài liệu được trình lên, sau khi suy tư chín chắn và liên lỉ cầu nguyện cùng Thiên Chúa, và nhờ quyền ủy thác mà Đức Kitô đã trao phó cho chúng tôi, nay chúng tôi quyết định tự mình đưa ra câu trả lời cho những vấn đề hệ trọng này.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC GIÁO HUẤN
Một cái nhìn toàn diện khởi đi từ nhân vị
7. Vấn đề tỷ lệ sinh sản, cũng như mọi vấn đề liên quan đến đời sống con người, cần được xem xét vượt lên trên những góc nhìn chuyên biệt – dù thuộc lãnh vực sinh học, tâm lý học, nhân khẩu học hay xã hội học – và đặt trong ánh sáng của một cái nhìn toàn diện về con người và về ơn gọi của họ, không chỉ trong trật tự tự nhiên và trần thế, mà còn trong thực tại siêu nhiên và đời đời. Và bởi vì, trong nỗ lực biện minh cho các phương pháp nhân tạo hạn chế sinh sản (i metodi artificiali di controllo delle nascite), nhiều người đã viện dẫn đến những đòi hỏi của tình yêu phu thê và của một trách nhiệm làm cha mẹ đúng đắn, nên cần thiết phải làm sáng tỏ và xác định cách chính xác ý nghĩa đích thực của hai thực tại lớn lao này trong đời sống hôn nhân. Điều này chúng tôi quyết tâm thực hiện, bằng cách đặc biệt hồi tưởng lại những gì Công đồng Vaticanô II đã trình bày cách đầy thẩm quyền trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes về vấn đề này.
Tình yêu phu thê
8. Tình yêu phu thê biểu lộ cách trọn vẹn nhất bản chất đích thực và phẩm giá cao quý của nó khi được suy xét trong nguồn mạch tối thượng là chính Thiên Chúa, Đấng “là Tình Yêu”,là Cha, “từ Người mà mọi tình phụ tử trên trời dưới đất đều được gọi tên”.
Vì thế, hôn nhân không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên, cũng không phải là sản phẩm của tiến trình tiến hóa do những lực tự nhiên vô thức thúc đẩy. Trái lại, hôn nhân đã được Thiên Chúa Tạo Hóa thiết lập cách khôn ngoan và quan phòng, để thực hiện nơi nhân loại kế hoạch tình yêu của Người. Qua sự hiến thân hỗ tương cá vị – một sự hiến thân riêng biệt và độc hữu – đôi vợ chồng hướng đến sự hiệp thông bản thân, trong đó họ hoàn thiện lẫn nhau, để cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh thành và giáo dục những sự sống mới.
Đối với những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, hôn nhân mang phẩm giá của một dấu chỉ bí tích của ân sủng, vì nó biểu thị và thực sự tham dự vào sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh.
Các đặc tính của tình yêu phu thê
9. Dưới ánh sáng này, những đặc tính và đòi hỏi riêng biệt của tình yêu phu thê hiện rõ cách sáng tỏ, và việc có một nhận thức đúng đắn về chúng là điều hết sức quan trọng.
Trước hết, đó là một tình yêu hoàn toàn nhân bản, nghĩa là vừa cảm xúc vừa thiêng liêng. Tình yêu ấy không chỉ là sự thúc đẩy của bản năng hay cảm xúc, nhưng trước hết và chủ yếu là một hành vi của ý chí tự do (volontà libera), được định hướng không chỉ để duy trì mà còn để lớn lên qua những vui buồn của đời sống thường nhật; nhờ đó, đôi vợ chồng trở nên một lòng một ý, và cùng nhau đạt tới sự hoàn thiện con người của họ.
Tiếp đến, đó là một tình yêu trọn vẹn, nghĩa là một hình thức đặc biệt của tình bạn cá vị, trong đó đôi vợ chồng quảng đại chia sẻ mọi sự, không có những dè dặt bất công hay những toan tính ích kỷ. Ai thực sự yêu người bạn đời thì không yêu vì những gì mình nhận được, nhưng yêu chính con người ấy, và vui lòng làm phong phú người ấy bằng chính sự tự hiến (dono di sé).
Đó cũng là một tình yêu trung tín và độc hữu (fedele ed esclusivo) cho đến chết. Thật vậy, đó chính là hình ảnh mà người chồng và người vợ hình dung vào ngày họ tự do và đầy ý thức đảm nhận cam kết của mối dây liên kết hôn nhân. Sự trung tín ấy, dù đôi khi gặp khó khăn, vẫn luôn khả thi, cũng như luôn cao quý và đầy công trạng – điều mà không ai có thể phủ nhận. Gương mẫu của biết bao đôi vợ chồng qua các thế kỷ không chỉ chứng minh rằng sự trung tín ấy phù hợp với bản chất của hôn nhân, mà còn cho thấy rằng từ đó phát sinh một hạnh phúc sâu xa và bền lâu.
Sau cùng, đó là một tình yêu phong nhiêu (fecondo), không khép kín trong sự hiệp thông của đôi bạn, nhưng được định hướng để tiếp nối bằng việc sinh thành những sự sống mới. “Thật vậy, hôn nhân và tình yêu phu thê, theo bản chất của mình, được sắp đặt cho việc sinh sản và giáo dục con cái. Con cái thực sự là ân huệ quý giá nhất của hôn nhân, và góp phần lớn lao vào thiện ích của chính cha mẹ”.
Làm cha mẹ có trách nhiệm
10. Vì thế, tình yêu vợ chồng đòi hỏi nơi các đôi bạn rằng họ phải hiểu biết cách thích hợp về sứ mạng làm cha mẹ có trách nhiệm – một sứ mạng ngày nay được nhấn mạnh cách chính đáng và cũng cần được hiểu một cách chính xác. Sứ mạng này cần được xem xét dưới nhiều khía cạnh hợp pháp khác nhau, vốn liên kết chặt chẽ với nhau.
Xét về các tiến trình sinh học, làm cha mẹ có trách nhiệm nghĩa là hiểu biết và tôn trọng các chức năng của chúng: trong khả năng ban sự sống, trí khôn con người khám phá ra những quy luật sinh học liên quan đến nhân vị con người.
Xét về các khuynh hướng bản năng và đam mê, làm cha mẹ có trách nhiệm nghĩa là lý trí và ý chí phải thực thi sự chế ngự cần thiết trên chúng.
Xét trong tương quan với các điều kiện thể lý, kinh tế, tâm lý và xã hội, việc thực thi trách nhiệm làm cha mẹ được thể hiện hoặc bằng sự suy xét thận trọng và lòng quảng đại để xây dựng một gia đình đông con, hoặc bằng quyết định – được đưa ra vì những lý do nghiêm trọng và trong sự tôn trọng luật luân lý – nhằm tránh việc sinh thêm con, dù là tạm thời hay không xác định thời hạn.
Hơn nữa, việc làm cha mẹ có trách nhiệm còn bao hàm và nhất là một mối liên hệ sâu xa hơn với trật tự luân lý khách quan, vốn được Thiên Chúa thiết lập và được lương tâm ngay thẳng diễn giải cách trung thực. Vì thế, việc thực thi trách nhiệm làm cha mẹ đòi hỏi các đôi bạn phải nhận ra bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, đối với chính bản thân, đối với gia đình và đối với xã hội, trong một phẩm trật đúng đắn về các giá trị.
Do đó, trong nhiệm vụ truyền sinh, họ không được phép hành động theo ý riêng, như là có thể tự do xác định những con đường luân lý phải theo. Trái lại, họ phải làm cho hành động của mình phù hợp với ý định sáng tạo của Thiên Chúa, được biểu lộ một đàng trong chính bản chất của hôn nhân và các hành vi gắn liền với nó, và đàng khác trong giáo huấn liên tục của Hội Thánh.
Tôn trọng bản chất và mục đích của hành vi hôn nhân
11. Những hành vi mà đôi vợ chồng kết hợp với nhau trong sự thân mật thanh khiết, và qua đó sự sống con người được truyền đạt – như Công đồng Vaticanô II đã nhắc lại – là những hành vi “chân chính và xứng đáng”. Những hành vi ấy không mất đi tính hợp pháp về luân lý, ngay cả khi được dự liệu là không sinh sản, miễn là sự vô sinh ấy không do ý muốn của đôi bạn, bởi vì chúng vẫn được định hướng cách tự nhiên để diễn tả và củng cố sự hiệp nhất vợ chồng. Thật vậy, như kinh nghiệm cho thấy, không phải từ mọi cuộc kết hợp vợ chồng đều phát sinh một sự sống mới. Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan của Người, đã thiết lập các quy luật và nhịp điệu tự nhiên của khả năng sinh sản, sao cho chính chúng, tự bản chất, tạo ra khoảng cách giữa các lần sinh nở. Tuy nhiên, khi Hội Thánh mời gọi con người tuân giữ các quy tắc của luật tự nhiên – vốn được diễn giải cách liên tục qua giáo huấn bất biến của Hội Thánh – thì Hội Thánh dạy rằng: bất cứ hành vi hôn nhân nào cũng phải luôn được định hướng, tự bản chất, đến việc truyền sinh sự sống con người.
Hai chiều kích bất khả phân: hợp nhất và truyền sinh
12. Giáo huấn này, vốn đã nhiều lần được Huấn quyền Hội Thánh trình bày, được đặt nền trên mối liên kết bất khả phân mà Thiên Chúa đã thiết lập – và con người không được phép tự ý phá vỡ – giữa hai ý nghĩa của hành vi hôn nhân: ý nghĩa hợp nhất và ý nghĩa truyền sinh. Cả hai đều hiện diện trong hành vi vợ chồng.
Thật vậy, do cấu trúc nội tại sâu xa của nó, hành vi hôn nhân, trong khi kết hợp người chồng và người vợ bằng một mối dây hết sức mật thiết, đồng thời làm cho họ trở nên xứng hợp để sinh ra một sự sống mới, theo các quy luật được ghi khắc trong chính bản tính của người nam và người nữ. Khi gìn giữ cả hai chiều kích thiết yếu – là hợp nhất và truyền sinh – hành vi vợ chồng vẫn bảo toàn trọn vẹn ý nghĩa của tình yêu chân thật và hỗ tương, đồng thời giữ nguyên định hướng của nó đến ơn gọi cao cả của con người nơi thiên chức làm cha mẹ. Chúng tôi tin rằng con người thời đại hôm nay có khả năng đặc biệt để nhận ra rằng giáo huấn này hoàn toàn phù hợp với lý trí nhân loại.
Trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa
13. Người ta có thể nhận định cách chính đáng rằng: một hành vi hôn nhân bị áp đặt lên người phối ngẫu mà không xét đến điều kiện thể lý hay tâm lý và những ước muốn chính đáng của họ thì không phải là một hành vi của tình yêu đích thực; và vì thế, hành vi ấy phủ nhận một đòi hỏi của trật tự luân lý ngay trong tương quan vợ chồng. Tương tự, nếu suy xét cách hợp lý, người ta buộc phải công nhận rằng: một hành vi của tình yêu hỗ tương mà làm tổn hại đến sự sẵn lòng lưu truyền sự sống – vốn được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa muôn loài, ghi khắc vào đó theo những quy luật riêng biệt – thì hành vi ấy mâu thuẫn với kế hoạch thần linh theo đó hôn nhân được thiết lập, và với ý muốn của Đấng là Tác giả của sự sống con người. Việc sử dụng hồng ân của Thiên Chúa mà phá hủy, dù chỉ phần nào, ý nghĩa và cứu cánh của chính hồng ân ấy là đi ngược lại bản tính của người nam và người nữ, cũng như mối tương quan sâu xa nhất giữa họ; và vì thế, cũng là đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa và thánh ý của Người. Trái lại, việc hưởng dùng hồng ân của tình yêu phu thê trong khi tôn trọng các quy luật của tiến trình truyền sinh là thừa nhận rằng mình không phải là chủ nhân của các nguồn mạch sự sống con người, nhưng đúng hơn là người phục vụ kế hoạch mà Đấng Tạo Hóa đã thiết lập. Thật vậy, cũng như con người không có quyền thống trị tuyệt đối trên thân thể mình, thì càng không có quyền thống trị trên các năng lực sinh sản của mình xét như thế, bởi vì bản chất của chúng là quy hướng cách nội tại đến việc khơi nguồn sự sống – mà Thiên Chúa là nguyên lý. Như Đức Gioan XXIII, vị tiền nhiệm khả kính của chúng tôi, đã nhắc nhở: “Sự sống con người là điều thánh thiêng; ngay từ lúc khởi đầu, sự sống ấy đã đòi hỏi hành động sáng tạo trực tiếp của Thiên Chúa”.
Những phương thế điều hòa sinh sản trái với luân lý
14. Dựa trên những nguyên tắc nền tảng của cái nhìn nhân bản và Kitô giáo về hôn nhân, chúng tôi một lần nữa tuyên bố rằng: việc trực tiếp ngăn chặn tiến trình truyền sinh đã khởi sự – đặc biệt là phá thai chủ ý, ngay cả khi được thực hiện vì lý do điều trị bệnh tật – phải tuyệt đối bị loại trừ như một phương tiện hợp pháp để điều tiết sinh sản.
Tương tự, như Huấn quyền Hội Thánh đã nhiều lần được biểu lộ rõ ràng, việc gây vô sinh trực tiếp – dù vĩnh viễn hay tạm thời – cho cả nam lẫn nữ, cũng phải bị lên án.
Cũng phải loại trừ mọi hành vi – dù được dự liệu trước khi thực hiện hành vi vợ chồng, trong lúc thực hiện, hay trong diễn tiến sau khi kết hợp – mà có ý sử dụng như một mục đích hoặc như một phương tiện để ngăn cản việc truyền sinh.
Để biện minh cho những hành vi vợ chồng cố ý tránh né việc sinh sản, người ta thường đưa ra các lý do như: cần chọn điều xấu có vẻ ít nghiêm trọng hơn, hoặc cho rằng những hành vi ấy chỉ là một phần trong toàn bộ đời sống hôn nhân – vốn bao gồm cả những hành vi sinh sản đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện – và vì thế, chúng được chia sẻ cùng một giá trị luân lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: dù đôi khi có thể chấp nhận một điều xấu nhỏ hơn để tránh một điều xấu lớn hơn, hoặc để đạt được một điều tốt lớn hơn, thì không bao giờ được phép – dù với lý do nghiêm trọng đến đâu – cố ý làm điều xấu để đạt được điều tốt. Nói cách khác, không được chủ ý thực hiện một hành vi vốn tự bản chất là sai trái, là rối loạn luân lý, và vì thế không xứng hợp với phẩm giá con người, ngay cả khi nhằm bảo vệ hay thúc đẩy lợi ích cá nhân, gia đình hoặc xã hội. Do đó, thật sai lầm khi cho rằng một hành vi vợ chồng cố ý làm cho không sinh sản – vốn tự bản chất là không ngay chính – lại có thể được biện minh bởi toàn bộ đời sống hôn nhân vốn phong nhiêu.
Tính hợp luân lý của các phương thế điều trị
15. Mặt khác, như giáo huấn của Hội Thánh đã dạy cách đúng đắn, việc sử dụng các phương pháp điều trị y khoa cần thiết để chữa trị các bệnh lý trong thân thể không bị coi là điều bất hợp pháp, ngay cả khi từ đó có thể phát sinh một ngăn trở – dù đã được dự liệu – đối với việc truyền sinh, miễn là ngăn trở ấy không được trực tiếp mong muốn vì bất kỳ lý do nào.
Tính hợp luân lý của việc sử dụng các thời kỳ không thụ thai
16. Đối với giáo huấn của Hội Thánh về luân lý hôn nhân, ngày nay có người phản đối, như đã đề cập ở số 3, rằng lý trí con người có quyền năng điều khiển các năng lực do bản tính phi lý trao ban và hướng chúng đến một mục tiêu phù hợp với thiện ích của con người. Một số người đặt vấn đề: trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay, chẳng phải là hợp lý khi sử dụng các phương pháp nhân tạo để kiểm soát sinh sản, nếu điều đó mang lại sự hòa thuận và bình an trong gia đình, cũng như tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giáo dục con cái đã sinh ra? Câu hỏi này cần được trả lời cách rõ ràng: Hội Thánh là người đầu tiên ca ngợi và khuyến khích việc sử dụng trí khôn con người trong những công trình mà ở đó, thụ tạo có lý trí được kết hợp mật thiết với Đấng Tạo Hóa của mình; tuy nhiên, Hội Thánh cũng khẳng định rằng điều ấy phải được thực hiện trong sự tôn trọng trật tự luân lý do Thiên Chúa thiết lập.
Vì thế, nếu có những lý do nghiêm túc để giãn cách việc sinh nở – phát xuất từ tình trạng thể lý hoặc tâm lý của đôi vợ chồng, hoặc từ hoàn cảnh bên ngoài – thì Hội Thánh dạy rằng trong trường hợp ấy, đôi bạn được phép lưu tâm đến các nhịp điệu tự nhiên vốn gắn liền với chức năng sinh sản, để chỉ sử dụng đời sống vợ chồng trong những thời kỳ không thụ thai, và như thế điều chỉnh việc sinh sản mà không xúc phạm chút nào đến các nguyên tắc luân lý đã được nêu ra.
Hội Thánh luôn nhất quán với chính mình: vừa cho phép việc lưu tâm đến các thời kỳ không thụ thai, vừa luôn lên án việc sử dụng các phương tiện trực tiếp ngăn cản việc thụ thai như là điều trái luân lý, cho dù hành vi ấy được biện minh bằng những lý do xem ra chính đáng và hệ trọng. Thật vậy, hai cách hành xử này hoàn toàn khác biệt: trong trường hợp thứ nhất, đôi bạn hợp pháp sử dụng một quy luật tự nhiên; còn trong trường hợp thứ hai, họ chủ ý ngăn cản tiến trình tự nhiên của việc sinh sản. Dù rằng trong cả hai trường hợp, đôi bạn đều đồng thuận cách chắc chắn để tránh việc sinh con vì những lý do hợp lý, và đều tìm kiếm sự bảo đảm rằng con cái sẽ không được sinh ra, thì cũng phải thừa nhận rằng: chỉ trong trường hợp thứ nhất, đôi bạn biết từ bỏ việc kết hợp vợ chồng trong những thời kỳ phong nhiêu, khi vì lý do chính đáng mà việc thụ thai không được mong muốn; và khi những thời kỳ không thụ thai trở lại, họ sử dụng đời sống vợ chồng như một biểu hiện của tình yêu và như sự bảo vệ cho lòng trung tín lẫn nhau. Chính khi hành xử như thế, họ minh chứng một tình yêu chân thật, hoàn toàn hợp luân lý và xứng đáng với phẩm giá của đời sống hôn nhân.
Những hậu quả nghiêm trọng của các phương pháp điều hòa sinh sản nhân tạo
17. Những người thiện tâm sẽ càng xác tín hơn về tính nền tảng của giáo huấn Hội Thánh trong lãnh vực này, nếu họ chịu hướng tâm trí suy ngẫm về những hệ quả có thể phát sinh từ việc áp dụng các phương pháp nhân tạo điều tiết sinh sản. Trước hết, họ cần xem xét con đường rộng mở và dễ dàng đến mức nào sẽ được tạo ra cho sự bất trung trong hôn nhân và cho sự suy thoái phổ biến của luân lý. Không cần phải có kinh nghiệm lâu dài cũng đủ để nhận ra sự yếu đuối của bản tính con người, và hiểu rằng con người – đặc biệt là giới trẻ, vốn dễ bị tổn thương trong lãnh vực này – cần được khích lệ để trung thành với luật luân lý, chứ không phải được cung cấp những phương tiện dễ dàng để né tránh việc tuân giữ luật ấy. Cũng có thể lo ngại rằng người nam, khi đã quen với việc sử dụng các biện pháp ngăn cản thụ thai, sẽ dần đánh mất lòng tôn trọng dành cho người nữ, không còn lưu tâm đến sự quân bình thể lý và tâm lý của nàng, và đi đến chỗ xem nàng như một công cụ phục vụ cho khoái lạc ích kỷ, thay vì là người bạn đời được kính trọng và yêu thương.
Cũng cần suy nghĩ về thứ vũ khí nguy hiểm sẽ được đặt vào tay các nhà lãnh đạo công quyền, những người vốn ít quan tâm đến các đòi hỏi của luân lý. Ai sẽ trách cứ một chính phủ khi họ áp dụng cho toàn thể xã hội những gì được coi là hợp luân lý đối với đôi vợ chồng trong việc giải quyết một khó khăn gia đình? Ai sẽ ngăn cản các nhà cầm quyền khuyến khích, hoặc thậm chí áp đặt cho toàn dân những phương pháp ngăn cản việc thụ thai mà họ cho là hiệu quả nhất, bất cứ khi nào họ cho là cần thiết? Như thế, khi con người muốn tránh những khó khăn cá nhân, gia đình hay xã hội gắn liền với việc tuân giữ luật Thiên Chúa, họ sẽ đi đến chỗ phó mặc lãnh vực riêng tư và sâu xa nhất của đời sống hôn nhân cho sự can thiệp của các cơ quan công quyền.
Vì vậy, nếu không muốn phó mặc sứ mạng truyền sinh cho sự tùy tiện của con người, thì tất yếu phải nhìn nhận những giới hạn không thể vượt qua trong khả năng làm chủ thân thể và các chức năng tự nhiên của nó – những giới hạn mà không ai, dù là cá nhân hay người có thẩm quyền công cộng, được phép vi phạm. Và những giới hạn ấy chỉ có thể được xác định bởi lòng tôn trọng dành cho sự toàn vẹn của thân thể con người và các chức năng tự nhiên của nó, theo những nguyên tắc đã được trình bày ở trên, và theo sự hiểu biết đúng đắn về “nguyên tắc toàn thể” (principium totius ordinis moralis), như vị tiền nhiệm khả kính của chúng tôi, Đức Piô XII, đã minh giải.
Hội Thánh là đấng bảo đảm cho các giá trị nhân bản đích thực
18. Có thể tiên liệu rằng giáo huấn này sẽ không dễ được mọi người đón nhận: có quá nhiều tiếng nói – được các phương tiện truyền thông hiện đại khuếch đại – đang chống lại tiếng nói của Hội Thánh. Tuy nhiên, Hội Thánh không lấy làm ngạc nhiên khi thấy mình, giống như chính Đấng Sáng Lập thần linh của mình, trở thành một “dấu chỉ bị chống đối”; nhưng vì thế, Hội Thánh vẫn không từ bỏ việc công bố với sự khiêm tốn và kiên vững toàn bộ luật luân lý, cả luật tự nhiên lẫn luật Tin Mừng.
Hội Thánh không phải là tác giả của các luật ấy, nên cũng không thể là thẩm phán của chúng; Hội Thánh chỉ là người gìn giữ và giải thích, và không bao giờ có thể tuyên bố là hợp pháp điều vốn không hợp pháp, bởi vì điều ấy, do bản chất nội tại và bất biến của nó, luôn chống lại thiện ích chân thật của con người.
Khi bảo vệ toàn vẹn luân lý hôn nhân, Hội Thánh ý thức rằng mình đang góp phần vào việc xây dựng một nền văn minh thực sự nhân bản; đồng thời, Hội Thánh mời gọi con người đừng thoái thác trách nhiệm của mình để phó mặc cho kỹ thuật, và như thế, bảo vệ phẩm giá của đôi bạn. Trung thành với giáo huấn và gương mẫu của Đấng Cứu Thế, Hội Thánh cho thấy mình là người bạn chân thành và vô vị lợi của nhân loại, mà Hội Thánh muốn nâng đỡ ngay từ hành trình trần thế này, “để họ được tham dự như con cái vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống, là Cha của hết mọi người”.
III. NHỮNG CHỈ DẪN MỤC VỤ
Hội Thánh “người mẹ và người thầy”
19. Lời nói của chúng tôi sẽ không diễn đạt đầy đủ cho tư tưởng và nỗi ưu tư của Hội Thánh – người Mẹ và người Thầy của muôn dân – nếu, sau khi đã kêu gọi con người tuân giữ và tôn trọng luật Thiên Chúa liên quan đến hôn nhân, Hội Thánh lại không nâng đỡ họ trong việc sống điều hòa sinh sản cách chính trực, ngay cả giữa những hoàn cảnh khó khăn đang làm các gia đình và các dân tộc ngày nay khổ sở. Thật vậy, Hội Thánh không thể có một thái độ nào khác đối với con người ngoài thái độ của chính Đấng Cứu Thế: Hội Thánh biết rõ sự yếu đuối của họ, cảm thương đám đông, đón nhận người tội lỗi; nhưng Hội Thánh không thể từ bỏ việc giảng dạy lề luật, vốn nó là chính sự sống của con người, được phục hồi trong chân lý nguyên thủy của mình và được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn.
Khả năng tuân giữ luật Thiên Chúa
20. Giáo huấn của Hội Thánh về việc điều hòa sinh sản, vốn công bố luật Thiên Chúa, có thể dễ dàng bị nhiều người xem là điều khó thực hiện, thậm chí là không thể tuân giữ. Tuy nhiên, cũng như mọi thực tại cao cả và mang lại thiện ích, giáo huấn này đòi hỏi từ cá nhân, gia đình đến toàn thể xã hội dấn thân nghiêm túc và nhiều nỗ lực. Thật vậy, giáo huấn ấy sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng nâng đỡ và củng cố thiện chí của con người. Nhưng đối với những ai suy xét cách thấu đáo, thì những nỗ lực ấy sẽ được nhận ra là điều làm thăng tiến phẩm giá con người và mang lại nhiều thiện ích cho cộng đồng nhân loại.
Sự làm chủ bản thân
21. Thực hành đúng đắn và trung thực trong việc điều hòa sinh sản trước hết đòi hỏi nơi các đôi vợ chồng điều sau: họ phải thủ đắc và có được những xác tín vững chắc về các giá trị đích thực của sự sống và gia đình, đồng thời hướng đến việc đạt được sự làm chủ hoàn toàn bản thân. Việc chế ngự bản năng bằng lý trí và ý chí tự do chắc chắn đòi hỏi một hành trình khổ chế, để những biểu hiện tình cảm trong đời sống hôn nhân được đặt vào trật tự đúng đắn, đặc biệt là trong việc thực hành tiết dục định kỳ. Tuy nhiên, kỷ luật này, vốn gắn liền với sự trong sạch (purezza) của đôi vợ chồng, không những không làm tổn hại tình yêu hôn nhân, mà còn nâng tình yêu ấy lên một giá trị nhân bản cao hơn. Kỷ luật ấy đòi hỏi một nỗ lực liên tục, nhưng nhờ ảnh hưởng tích cực của nó, các đôi vợ chồng phát triển toàn diện nhân cách của mình, được làm giàu bằng các giá trị thiêng liêng. Nó mang lại cho đời sống gia đình hoa trái của sự thanh thản và bình an, đồng thời giúp giải quyết các vấn đề khác. Kỷ luật ấy khuyến khích sự quan tâm đến người bạn đời, giúp loại bỏ tính ích kỷ — kẻ thù của tình yêu chân thật — và đào sâu ý thức trách nhiệm trong việc chu toàn bổn phận. Nhờ đó, cha mẹ có được khả năng ảnh hưởng sâu sắc và hiệu quả hơn trong việc giáo dục con cái; trẻ em và thanh thiếu niên lớn lên với sự đánh giá đúng đắn về các giá trị nhân bản, và phát triển các năng lực tinh thần và cảm xúc của mình một cách thanh thản và hài hòa.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho đức khiết tịnh
22. Nhân dịp này, Hội Thánh muốn kêu gọi sự chú ý của các nhà giáo dục và tất cả những ai đang đảm nhận trách nhiệm liên quan đến lợi ích chung trong đời sống xã hội, về sự cần thiết phải kiến tạo một môi trường thuận lợi cho việc giáo dục đức khiết tịnh (castità) — nghĩa là để cho tự do lành mạnh chiến thắng sự buông thả, bằng việc tôn trọng trật tự luân lý.
Qua tất cả những gì mà các phương tiện truyền thông hiện đại có xu hướng kích thích các giác quan, cổ vũ lối sống phóng túng, cũng như mọi hình thức khiêu dâm hoặc trình diễn trụy lạc, chúng phải khơi dậy phản ứng rõ ràng và đồng lòng từ tất cả những ai thực sự quan tâm đến sự tiến bộ của nền văn minh và việc bảo vệ các giá trị cao quý nhất của tinh thần con người. Thật là vô ích nếu ai đó cố gắng biện minh cho những suy đồi ấy bằng những lý do được gán cho nghệ thuật hay khoa học, hoặc bằng lập luận về tự do mà các nhà chức trách công quyền có thể đã cho phép trong lãnh vực này.
Lời kêu gọi gửi đến các nhà chức trách công quyền
23. Chúng tôi muốn ngỏ lời với các nhà cầm quyền — những người giữ vai trò chính yếu trong việc bảo vệ lợi ích chung và có ảnh hưởng lớn trong việc gìn giữ nền luân lý xã hội: xin đừng để cho đạo đức của dân tộc mình bị suy thoái; xin đừng chấp nhận việc hợp thức hóa, ngay trong gia đình — tế bào nền tảng của quốc gia — những thực hành đi ngược lại luật tự nhiên và luật Thiên Chúa. Có một con đường khác mà nhà chức trách công quyền có thể và phải thực hiện để góp phần giải quyết vấn đề dân số: đó là xây dựng một chính sách gia đình khôn ngoan và chu đáo, cùng với việc giáo dục người dân một cách sáng suốt, sao cho vừa tôn trọng luật luân lý, vừa bảo vệ tự do của công dân.
Chúng tôi hoàn toàn ý thức được những khó khăn nghiêm trọng mà các nhà chức trách đang phải đối diện trong vấn đề này, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển. Những mối quan tâm chính đáng ấy đã được chúng tôi dành riêng để suy xét trong Thông điệp Populorum Progressio. Tuy nhiên, giờ đây, cùng với vị tiền nhiệm đáng kính là Đức Gioan XXIII, chúng tôi xin lặp lại lời khẳng định này: “Những khó khăn ấy không thể được vượt qua bằng cách sử dụng những phương pháp và phương tiện không xứng với phẩm giá con người, vốn chỉ có thể được giải thích theo một quan điểm hoàn toàn duy vật về con người và đời sống của họ. Giải pháp đích thực chỉ có thể đạt được qua tiến trình phát triển kinh tế và xã hội, vốn tôn trọng và thăng tiến các giá trị nhân bản đích thực — cả ở cấp độ cá nhân lẫn cộng đồng”. Thật vậy, sẽ là một sự bất công nghiêm trọng nếu người ta quy trách nhiệm cho sự Quan Phòng của Thiên Chúa về những hậu quả thực ra phát xuất từ sự quản trị thiếu khôn ngoan, từ cảm thức chưa đầy đủ về công bằng xã hội, từ sự tích trữ của cải vì lợi ích cá nhân, hoặc từ sự lười biếng đáng trách trong việc thực hiện những nỗ lực và hy sinh cần thiết để nâng cao mức sống của toàn dân và con cái họ. Chúng tôi kêu gọi tất cả các nhà chức trách công quyền — như một số vị đã thực hiện cách rất đáng khen — hãy quảng đại canh tân những nỗ lực của mình. Chúng tôi cũng mời gọi tất cả những người thiện chí cùng nhau thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia. Thật vậy, vấn đề này mở ra một lĩnh vực hoạt động gần như vô hạn cho các tổ chức quốc tế, những tổ chức có thể góp phần thực sự vào việc thăng tiến con người.
Lời khích lệ gửi đến các nhà khoa học
24. Giờ đây, chúng tôi muốn gửi lời khích lệ đến các nhà khoa học — những người “có thể đóng góp rất lớn cho lợi ích của hôn nhân và gia đình, cũng như cho sự bình an của lương tâm — nếu họ cùng nhau hợp tác nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn những điều kiện khác nhau có thể hỗ trợ cho việc điều hòa sinh sản của con người một cách chính trực”. Điều đặc biệt được mong đợi — như lời hy vọng trước đây của Đức Piô XII — là ngành y học có thể thiết lập được một nền tảng đủ vững chắc cho việc điều hòa sinh sản cách chính trực, dựa trên sự tuân thủ các nhịp điệu tự nhiên của con người. Nhờ đó, các nhà khoa học — đặc biệt là những người mang danh nghĩa Công giáo — sẽ có thể, bằng chính công trình của mình, chứng minh rằng thực tế đúng như Hội Thánh dạy: không thể có một mâu thuẫn thực sự nào giữa các luật Thiên Chúa chi phối việc truyền sinh và các luật nâng đỡ tình yêu vợ chồng chân thật.
Gửi đến các đôi vợ chồng Kitô hữu
25. Giờ đây, chúng tôi muốn trực tiếp ngỏ lời với các con cái của Hội Thánh, đặc biệt là những người được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ Người trong đời sống hôn nhân. Hội Thánh, trong khi trung thành giảng dạy những đòi hỏi bất khả thương lượng của luật Thiên Chúa, cũng đồng thời loan báo ơn cứu độ và mở ra, qua các bí tích, những con đường dẫn đến ân sủng — ân sủng ấy làm cho con người trở nên một thụ tạo mới, có khả năng đáp lại kế hoạch của Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Thế bằng tình yêu chân thật và tự do đích thực, và cảm nhận được sự dịu dàng trong ách của Đức Kitô.
Vì thế, các đôi vợ chồng Kitô hữu, khi khiêm tốn lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, hãy nhớ rằng ơn gọi Kitô hữu của mình khởi đầu từ Bí tích Rửa tội, và được xác định và củng cố qua Bí tích Hôn phối. Chính nhờ bí tích này, họ được nâng đỡ và như được thánh hiến, để trung thành chu toàn bổn phận, đưa ơn gọi của mình đến mức hoàn thiện, và trở nên chứng nhân Kitô giáo đích thực giữa lòng thế giới. Chính Thiên Chúa trao cho họ một sứ mạng: làm cho người ta nhận thấy sự thánh thiện và sự dịu dàng của lề luật — lề luật kết hợp tình yêu vợ chồng với việc cộng tác của họ vào chính tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch sự sống con người.
Chúng tôi không hề có ý che giấu những khó khăn, đôi khi rất nghiêm trọng, mà đời sống của các đôi vợ chồng Kitô hữu có thể gặp phải. Thật vậy, đối với họ, cũng như đối với mỗi người chúng ta, “cánh cửa thì hẹp và con đường dẫn đến sự sống thì chật” (x. Mt 7,14; Dt 12,11). Tuy nhiên, chính niềm hy vọng về sự sống ấy phải trở thành ánh sáng rực rỡ soi đường cho họ, khi họ can đảm phấn đấu “sống cách khôn ngoan, công chính và đạo đức trong thời hiện tại” (x. Tt 2,12), ý thức rằng “bộ mặt thế gian này rồi sẽ qua đi” (x. 1 Cr 7,31).
Vì thế, các đôi vợ chồng hãy vui lòng đón nhận những nỗ lực cần thiết, được nâng đỡ bởi đức tin và bởi niềm hy vọng “không làm thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta” (x. Rm 5,5); Họ hãy kiên trì cầu nguyện và khẩn xin sự trợ giúp của Thiên Chúa, đặc biệt là qua Bí tích Thánh Thể — nguồn mạch trường tồn của ân sủng và đức ái. Và nếu tội lỗi có lỡ xâm nhập vào đời sống của họ, đừng nản lòng, nhưng hãy khiêm tốn và kiên trì tìm đến lòng thương xót phong phú của Thiên Chúa, được ban cách dồi dào trong Bí tích Thống hối. Chính nhờ cách sống như thế, họ có thể đạt tới sự viên mãn của đời sống hôn nhân, như Thánh Tông đồ đã diễn tả: “Hỡi các người chồng, hãy yêu vợ mình như Đức Kitô đã yêu Hội Thánh… Người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ mình, chẳng phải là yêu chính mình sao? Không ai ghét thân xác mình, nhưng chăm sóc và nuôi dưỡng nó, như Đức Kitô đã làm cho Hội Thánh… Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Còn anh em, mỗi người hãy yêu vợ mình như chính mình, và người vợ hãy kính trọng chồng mình”.
Tông đồ giữa các mái ấm gia đình
26. Trong số những hoa trái chín muồi từ nỗ lực quảng đại và trung thành tuân giữ luật Thiên Chúa, có một kết quả đặc biệt quý giá: chính các đôi vợ chồng, không ít lần, cảm thấy được thúc đẩy chia sẻ với người khác kinh nghiệm sống đức tin của mình. Từ đó, trong khung cảnh rộng lớn của ơn gọi giáo dân, một hình thức tông đồ mới mẻ và rất đáng trân trọng đã xuất hiện: chính các đôi vợ chồng trở thành những người đồng hành, hướng dẫn và nâng đỡ cho các đôi vợ chồng khác — như những người bạn cùng chung một hành trình ơn gọi. Thật vậy, chính các gia đình đảm nhận một sứ mạng tông đồ đối với các gia đình khác, và trở thành điểm tựa thiêng liêng cho họ. Không thể phủ nhận rằng đây là một trong những hình thức tông đồ thích hợp và cần thiết nhất trong thời đại hôm nay.
Gửi đến các bác sĩ và nhân viên y tế
27. Chúng tôi dành sự kính trọng sâu xa đối với các bác sĩ và nhân viên y tế — những người, trong khi thi hành nhiệm vụ chuyên môn, vẫn đặt lên trên mọi lợi ích trần thế những đòi hỏi cao cả của ơn gọi Kitô hữu. Ước gì họ luôn kiên trì cổ võ những giải pháp được soi sáng bởi đức tin và lý trí ngay thẳng, và nỗ lực làm sao để những giải pháp ấy được đón nhận và tôn trọng trong chính môi trường nghề nghiệp của họ. Chúng tôi cũng mong rằng họ xem việc trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn trong lãnh vực tế nhị này là một phần thiết yếu trong trách nhiệm nghề nghiệp của mình, để có thể đưa ra những lời khuyên khôn ngoan và những chỉ dẫn đúng đắn cho các đôi vợ chồng đến tham khảo — những điều mà các đôi ấy có quyền chính đáng được trông đợi.
Gửi đến các linh mục
28. Hỡi các linh mục yêu dấu, những người đã được Thiên Chúa kêu gọi làm người hướng dẫn thiêng liêng cho từng cá nhân và từng gia đình, giờ đây chúng tôi hướng đến các con với tất cả lòng tin tưởng. Nhiệm vụ hàng đầu của các con — đặc biệt là những vị giảng dạy thần học luân lý — là trình bày cách đầy đủ, rõ ràng và không mơ hồ giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân. Trong khi thi hành thừa tác vụ, các con hãy là những người đi đầu, nêu gương sáng về sự vâng phục trung thành — cả trong tâm trí lẫn hành động — đối với Huấn quyền của Hội Thánh. Các con biết rõ rằng sự vâng phục ấy không chỉ là điều bắt buộc vì những lý do đã được trình bày, mà còn quan trọng hơn vì ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cách đặc biệt cho các mục tử của Hội Thánh để soi sáng và minh chứng chân lý. Các con cũng biết rằng, để bảo đảm sự bình an cho lương tâm và sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu, thì trong cả lĩnh vực luân lý lẫn tín lý, mọi người đều cần tuân thủ Huấn quyền của Hội Thánh và cùng nói một tiếng nói. Vì thế, với tất cả tâm tình, chúng tôi xin lặp lại lời kêu gọi tha thiết của Thánh Tông Đồ Phaolô: “Hỡi anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khẩn nài anh em: hãy đồng tâm nhất trí, đừng chia rẽ nhau, nhưng hãy hiệp nhất trong cùng một tinh thần và một tâm trí”.
29. Không làm suy giảm chút nào giáo lý cứu độ của Đức Kitô chính là một trong những hình thức bác ái cao quý nhất đối với các linh hồn. Tuy nhiên, việc trình bày giáo lý ấy luôn phải đi kèm với lòng kiên nhẫn và nhân hậu — như chính Đấng Cứu Chuộc đã nêu gương trong cách Người đối thoại và hành xử với con người. Người đã đến không phải để xét xử, nhưng để cứu độ thế gian. Người nghiêm khắc với tội lỗi, nhưng lại đầy lòng thương xót và kiên nhẫn đối với người tội lỗi.
Vì thế, trong những lúc gian nan thử thách, các đôi vợ chồng hãy tìm thấy nơi lời nói và tấm lòng của linh mục hình ảnh sống động của tiếng nói và tình yêu của Chúa Cứu Thế.
Hỡi các linh mục yêu dấu, các con hãy lên tiếng với lòng tin tưởng, xác tín rằng Chúa Thánh Thần — Đấng hiện diện cùng với Huấn quyền khi trình bày giáo lý chân thật — cũng soi sáng nội tâm các tín hữu, mời gọi họ tự nguyện và sốt sắng đón nhận giáo huấn ấy. Các con hãy dạy cho các đôi vợ chồng con đường cầu nguyện thiết yếu, và hướng dẫn họ một cách thích hợp, để họ thường xuyên và với lòng tin lớn lao tìm đến các Bí tích Thánh Thể và Thống hối. Và nếu họ bị vấp ngã vì sự yếu đuối của mình, đừng để họ nản lòng, nhưng hãy giúp họ khiêm tốn và kiên trì tìm đến lòng thương xót phong phú của Thiên Chúa, được ban cách dồi dào trong Bí tích Thống hối.
Gửi đến các giám mục
30. Giờ đây, khi kết thúc Thông điệp này, chúng tôi kính cẩn và trìu mến hướng tâm trí về quý Đức Cha khả kính — những vị đang thi hành sứ vụ giám mục và là những người gần gũi nhất với chúng tôi trong mối quan tâm sâu xa về lợi ích thiêng liêng của Dân Chúa. Chúng tôi tha thiết gửi đến quý ngài lời mời gọi khẩn thiết: xin quý ngài, với tư cách là người đứng đầu các linh mục — những cộng tác viên trong thừa tác vụ thánh — và toàn thể tín hữu, hãy làm việc với lòng nhiệt thành và không ngơi nghỉ để bảo vệ và thánh hóa hôn nhân, ngõ hầu đời sống vợ chồng ngày càng được sống trọn vẹn trong tất cả chiều kích nhân bản và Kitô giáo của nó. Xin quý ngài coi sứ mạng này là một trong những trách nhiệm cấp bách nhất trong thời điểm hiện tại. Như quý ngài đã biết, sứ mạng ấy đòi hỏi một hoạt động mục vụ phối hợp, liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống con người: từ kinh tế, văn hóa, giáo dục cho đến các vấn đề xã hội. Chỉ khi tất cả các lĩnh vực này cùng được cải thiện đồng thời, thì đời sống của cha mẹ và con cái trong gia đình mới không chỉ trở nên dễ chịu hơn, mà còn dễ dàng và vui tươi hơn. Và khi đó, tình huynh đệ đậm đà bác ái cùng với nền hòa bình chân thật sẽ được củng cố trong xã hội loài người, trong sự trung thành nghiêm ngặt với kế hoạch mà Thiên Chúa đã hình thành trong tâm trí Ngài dành cho thế giới.
Lời kêu gọi cuối cùng
31. Thưa quý Đức Cha khả kính, các con rất yêu dấu, và tất cả anh chị em thiện chí, chúng tôi tha thiết mời gọi anh chị em cùng chung tay thực hiện một công trình vĩ đại: công trình giáo dục, thăng tiến và yêu thương — được xây dựng trên nền tảng giáo lý vững chắc của Hội Thánh, mà Đấng kế vị Thánh Phêrô, cùng với các anh em trong giám mục đoàn Công giáo, là những người trung thành gìn giữ và giải thích. Chúng tôi xác tín rằng đây thực sự là một công trình lớn lao, mang lại lợi ích cho cả thế giới và Hội Thánh. Bởi lẽ, con người không thể đạt tới hạnh phúc đích thực — điều mà họ khao khát với tất cả sức mạnh của bản thân — nếu không tôn trọng những luật lệ mà Thiên Chúa chí thánh đã khắc ghi trong chính bản tính của họ, những luật lệ cần được tuân giữ với sự khôn ngoan và tình yêu. Vì thế, cho công trình này, cũng như cho tất cả anh chị em, và cách riêng cho các đôi vợ chồng, chúng tôi khẩn xin Thiên Chúa chí thánh và đầy lòng thương xót tuôn đổ dồi dào ân sủng từ trời cao. Và như một bảo chứng cho lời khẩn nguyện ấy, chúng tôi vui lòng ban cho anh chị em phép lành Tông tòa của chúng tôi.
Ban hành tại Rôma, tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, nhân ngày lễ kính Thánh Giacôbê Tông đồ, ngày 25 tháng 7 năm 1968,
năm thứ sáu triều đại Giáo hoàng của chúng tôi.
GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI