Cuộc phỏng vấn đầu tiên của Đức Lêô XIV cho thấy ngài là nhà giáo luật thận trọng

Khi Đức Lêô XIV được bầu, nhiều người hỏi tôi về ngài. Tôi trả lời phải đợi sáu tháng đến một năm mới hiểu rõ con người của ngài.

Bốn tháng sau ngày bầu cử, trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Elise Ann Allen của trang Crux, Đức Lêô bắt đầu cho thấy về ngài: ngài là nhà giáo luật thông minh nhưng thận trọng. Ngài không từ chối các cải cách của Đức Phanxicô, nhưng chưa vội đi xa hơn. Ngài cho thấy con người của ngài qua cả những điều ngài không nói. Trong cuộc phỏng vấn, không có câu nói nổi bật nào như khi Đức Phanxicô tuyên bố: “Tôi sẽ không bị ám ảnh về vấn đề phá thai.” Cũng không có câu trả lời nào gây tiếng vang như “Tôi là ai mà dám phán xét?” khi Đức Phanxicô trả lời về các linh mục đồng tính.

Như một luật sư giỏi, Đức Lêô trả lời các câu hỏi nhưng không tạo ra tiêu đề báo chí. Ngài không muốn mạo hiểm nói những gì dễ bị  hiểu sai.

Điều này khẳng định những gì chúng ta thấy trong ngày ngài được bầu: những lời đầu tiên ngài đọc là từ văn bản đã chuẩn bị sẵn, trong khi Đức Phanxicô nói tự phát. Chúng ta nhớ lời chào thân mật “buona sera” (chào buổi tối) của Đức Phanxicô ở Đền thờ Thánh Phêrô và lời ngài xin mọi người cầu nguyện cho ngài trước khi ngài ban phép lành. Còn Đức Lêô, chúng ta có nhớ ngài đã nói hay làm gì trong ngày đầu tiên ngoài việc ngài mặc áo giống Đức Bênêđictô không?

Nhưng Đức Lêô không phải là Bênêđictô. Câu trả lời của ngài không nặng thần học và triết học phức tạp như Đức Bênêđictô hay Đức Gioan Phaolô II. Ngài trả lời rõ ràng, tinh tế đúng phong cách của một luật sư.

Trong suốt cuộc phỏng vấn, ngài không bao giờ tách ngài khỏi Đức Phanxicô, ngay cả trong những vấn đề gây tranh cãi. Khi được hỏi về các cặp đồng tính, Đức Lêô nói: “Điều tôi muốn nói chính là điều Đức Phanxicô đã nói rất rõ khi ngài nhấn mạnh: ‘todos, todos, todos’ nghĩa là “tất cả mọi người, tất cả, tất cả.”

Như Đức Phanxicô, Đức Lêô đồng ý có thể chúc lành cho người đồng tính như mọi người khác, nhưng ngài phê bình việc biến chúc lành thành nghi thức công khai như một số người mong muốn.

Ngài giải thích: “Tại Bắc Âu, họ đã công bố những nghi thức chúc lành cho ‘những người yêu nhau’, theo cách họ diễn đạt. Điều này đi ngược lại hẳn với Tuyên ngôn Fiducia supplicans về mục vụ của các chúc lành Đức Phanxicô đã phê chuẩn. Văn kiện đó khẳng định: chúng ta có thể chúc lành cho mọi người, nhưng không nhằm nghi thức hóa một loại chúc lành nào vì Giáo hội không dạy như vậy.”

Về vấn đề nữ phó tế, Đức Lêô chọn cách đi chậm. Ngài nhắc “chủ đề này đã được nghiên cứu nhiều năm.” Như Đức Phanxicô, ngài nói: “Hiện tại, tôi chưa có ý định thay đổi giáo huấn của Giáo hội về vấn đề này.” Cũng như Đức Phanxicô, ngài lo ngại việc “chủng sinh hóa” phụ nữ.

Tuy vậy, ngài cũng nêu vấn đề mới: nhiều nơi chưa ủng hộ chức phó tế nữ, đặc biệt ở châu Phi, nơi các giám mục thích có giáo lý viên hơn là phó tế. Ngài đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta bàn đến việc truyền chức phó tế nữ, ngay cả khi chức phó tế nói chung vẫn chưa được hiểu đúng, phát triển và cổ võ trong Giáo hội?”

Một số người kỳ vọng ngài sẽ nới lỏng việc cử hành Thánh lễ La-tinh truyền thống. Nhưng giống như Đức Phanxicô, ngài khẳng định: “Hiện tại, anh chị em vẫn có thể dâng lễ bằng tiếng La-tinh. Nếu là nghi thức theo Công đồng Vaticanô II thì không có vấn đề gì.”

Ngài cho rằng vấn đề này, tiếc thay, đã trở thành một phần của tiến trình phân cực, khi chúng ta dùng phụng vụ như cái cớ để thúc đẩy những mục tiêu khác. Ngài nhận xét: “Nó đã thành công cụ chính trị, và điều đó thật đáng tiếc.”

Ngài lưu ý: “Việc ‘lạm dụng’ phụng vụ theo nghi thức Vatican II không giúp ích gì cho những người đi tìm kinh nghiệm cầu nguyện sâu hơn, tiếp xúc với mầu nhiệm đức tin – điều dường như họ tìm thấy trong thánh lễ Tridentinô. Tôi nghĩ nếu chúng ta cử hành phụng vụ Vatican II một cách đúng đắn, nhu cầu tìm đến Thánh lễ Tridentinô sẽ giảm.”

Tuy vậy Đức Lêô cũng đem lại chút hy vọng cho những người ủng hộ Thánh lễ Tridentinô khi ngài dự định “gặp một nhóm người ủng hộ nghi thức Tridentinô.” Đức Phanxicô đã không làm như vậy. Thiện chí của Đức Lêô xuất phát từ tinh thần hiệp hành, đặc điểm nổi bật trong triều Đức Phanxicô. Nếu Đức Phanxicô phê bình những người này vì tính ý thức hệ và không hiệp thông với Giáo hội, thì Đức Lêô lại sẵn sàng đối thoại, dù ngài biết chính sự gắn bó ý thức hệ có thể cản trở cuộc đối thoại.

Đức Lêô rất gắn bó với tinh thần hiệp hành, ngài mô tả đó là “một thái độ, một cởi mở, một ý chí muốn hiểu nhau. Trong Giáo hội, mỗi thành viên đều có tiếng nói và chức vụ.”

Ngài nhắc đến tiến trình cầu nguyện và phân định trong Thượng Hội đồng vừa qua, đó là “cuộc đối thoại trong Chúa Thánh Thần.” Nhưng ngài khẳng định không gò bó trong một cách duy nhất để sống hiệp hành: “Có nhiều cách để tiến hành: đối thoại, tôn trọng lẫn nhau, đưa mọi người lại gần nhau, hiểu nhau, tạo cơ hội gặp gỡ. Đó là chiều kích quan trọng trong đời sống Giáo hội.”

Đức Lêô sẽ không đưa Giáo hoàng trở lại mô hình độc đoán của quá khứ. Cũng như Đức Phanxicô, ngài cho phép và khuyến khích đối thoại. Ngài không ngại nói rằng mình chưa có quyết định về một số vấn đề, và hy vọng cộng đoàn sẽ cùng nhau giải quyết trong tinh thần hiệp hành.

Tuy nhiên, hiệp hành không có nghĩa biến Giáo hội thành dân chủ. Những người hiểu ngài đều nói: ngài lắng nghe mọi người, nhưng cuối cùng ngài sẽ đưa ra quyết định chắc chắn, cho dù sẽ làm một số người thất vọng.

Dưới triều Đức Lêô, tôi dự đoán sẽ ít bất ngờ và ít tựa đề báo hơn so với triều Đức Phanxicô. Nhưng ngài không thay đổi hướng đi của Con thuyền Phêrô. Ngài không quay mũi tàu lại, cũng không hô: “Mặc kệ thủy lôi, cứ tiến hết tốc lực.” Ngài chọn: “Cứ giữ vững hướng đi.”

Linh mục Dòng Tên Thomas J. Reese là nhà phân tích cao cấp của trang Religion News Service. Trước đây, Linh mục từng viết chuyên mục cho trang National Catholic Reporter (2015–2017), phó tổng biên tập (1978–1985) và tổng biên tập (1998–2005) của tạp chí America.

Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch(phanxico.vn)