Vạn nẻo gian truân, luôn có Chúa Giêsu đồng hành

Báo Quan sát viên Rôma (L’Osservatore Romano) số ra ngày 27 tháng 6 năm 2025 đã có một bài viết về sứ vụ loan báo Tin mừng của cha Đaminh Ngô Quang Tuyên, Thư ký Ủy ban Loan báo Tin mừng trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Sau đây là toàn văn bản dịch Việt ngữ của bài báo này.

L’OSSERVATOR E ROMANO

Unicuique suum – Non praevalebunt

Anno CLXV n. 147 (49.956) – Thành Vatican – Thứ Sáu ngày 27 tháng 6 năm 2025

Cuộc đời của cha Đaminh Ngô Quang Tuyên là một hành trình dâng hiến trọn vẹn cho sứ mạng loan báo Tin Mừng – từ khởi đầu cho đến hôm nay, trong niềm vui cũng như giữa đau khổ, như chính cha vẫn thường nói. Đó là một hành trình đức tin trải dài qua cả những thử thách khắc nghiệt, có cả thời gian tù ngục vì lòng trung thành với Chúa. Suốt 52 năm thi hành thừa tác vụ linh mục, cha Đaminh đã kinh qua nhiều hoàn cảnh đặc biệt: từng hiện diện nơi những vùng đất mà danh Chúa Giêsu vẫn còn xa lạ, phục vụ tại các giáo xứ với nhiều nhu cầu mục vụ khẩn thiết, sáng lập các giáo điểm truyền giáo, phục vụ Caritas Việt Nam và sau đó là Hội đồng Giám mục. Hiện nay, dù đã 77 tuổi và chính thức nghỉ hưu, cha vẫn không ngừng hoạt động trong công tác đào tạo và phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng. Ngài luôn tiếp tục sứ mạng với niềm vui trong tâm hồn và nụ cười trên môi. Cánh cửa Nhà hưu nơi cha đang cư ngụ tại TP. Hồ Chí Minh luôn rộng mở để đón tiếp mọi người: khách hành hương, giáo dân, người tìm kiếm Chúa. Cha tâm sự: “Hiện giờ, tôi đang phục vụ các tín hữu như một người cha linh hướng và giải tội cho giáo dân. Ngày nào cũng có những người bạn mới đến thăm tôi”, bởi lẽ rất nhiều người nhận ra sự khôn ngoan và ơn thánh mà Chúa ban cho cha, và cha Đaminh luôn rộng lòng chia sẻ ân huệ đó cho mọi người. Một lời khuyên thiêng liêng, một lời an ủi, một sự trợ giúp – với ngài, không bao giờ bị từ chối.

Chia sẻ với L’Osservatore Romano, cha Ngô Quang Tuyên kể về ơn gọi của mình: “Tôi được đào tạo trong bối cảnh Công đồng Vaticanô II, và đặc biệt bị đánh động bởi sắc lệnh Ad Gentes về truyền giáo. Ngay sau khi được thụ phong linh mục, tôi đã tình nguyện đến vùng phía Nam của Tổng Giáo phận Sài Gòn – nơi có nhiều dân tộc thiểu số và các cộng đồng chưa biết đến Chúa.” “Lúc đó là giữa thập niên 1970, tôi còn nhớ mình đã đi thăm các gia đình trong vùng bằng thuyền. Tôi luôn cảm nhận sự hiện diện gần gũi của Chúa và tín thác mọi công việc vào tay Người.” Lúc bấy giờ, cha Đaminh trẻ tuổi đã cử hành bí tích Rửa Tội, thành lập một số giáo điểm và cộng đoàn nhỏ, dựng nên những nguyện đường đơn sơ – nhưng chẳng bao lâu sau, các công trình ấy đã bị chính quyền tịch thu. Những nghi ngờ về ngài bắt đầu gia tăng. Vì có nhiều người dân di cư sang Lào và Campuchia, cha bị vu cáo là tổ chức đưa người vượt biên, và vào năm 1982, cha bị bắt giam.

Cha kể lại: “Trong thời gian ấy, mẹ tôi nói với tôi: ‘Con hãy coi nhà tù là giáo xứ của con, phòng giam là nhà nguyện của con, và các tù nhân là giáo dân của con. Hãy can đảm, Chúa sẽ gìn giữ con.’” Những lời ấy đã trở thành nguồn an ủi và nâng đỡ ngài trong suốt thời gian dài bị giam cầm. Cha bị giam đến tận năm 1995. “Trong tù, tôi vẫn cử hành Thánh lễ chỉ với một mẩu bánh nhỏ và vài giọt rượu – giống như bao linh mục bị cầm tù khác, như Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận – vị mục tử luôn là mẫu gương cho tất cả chúng tôi.” Cha hồi tưởng: “Chính trong hoàn cảnh đó, tôi đã có thể chia sẻ Tin Mừng bằng chính chứng tá đức tin của mình.” Khi trở lại giáo phận, cha tiếp tục sứ vụ: xây dựng một ngôi thánh đường mới cho giáo xứ và thiết lập thêm một số giáo điểm truyền giáo tại các khu vực thành thị.

Cha Đaminh luôn ghi nhớ và trân trọng sự đóng góp nền tảng của các nhà truyền giáo đến từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Pháp và Nhật Bản trong công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Cha từng chia sẻ với hãng tin Fides: Giai đoạn từ 1695–1802 là thời kỳ “hình thành” của Giáo hội địa phương; Giai đoạn 1802–1885 là thời kỳ “bách hại”, với nhiều chứng nhân tử đạo; Giai đoạn 1885–1960 là thời kỳ “phát triển”; và từ thập niên 1960 đến nay là thời kỳ trưởng thành, dù đi kèm với sự thử thách khắc nghiệt từ chế độ cộng sản. Nhưng chính trong bách hại, đức tin vẫn không bị dập tắt – trái lại, càng được củng cố và nở hoa.

Ngày nay, cha ghi nhận: “Hàng ngàn giáo lý viên đang cộng tác trong việc chăm sóc trẻ em gặp khó khăn, người nghèo và bệnh nhân. Nhờ sự hỗ trợ của họ, chúng tôi – các linh mục và tu sĩ – có thể mang Tin Mừng đến cho những ai đang đói khát tình yêu của Đức Giêsu.” Cha Đaminh đã sống trọn vẹn tinh thần bác ái gắn liền với việc loan báo Tin Mừng, nhất là nơi những người dân vùng cao nguyên hay tại các khu truyền giáo phía Nam Việt Nam.

Cha chia sẻ thêm: “Hiện tại, tôi đang là Thư ký Ủy ban Loan báo Tin Mừng thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhờ vậy, tôi thường xuyên liên lạc với nhiều hội dòng để chia sẻ các công trình và kinh nghiệm truyền giáo của họ.” Với tinh thần dấn thân trọn vẹn cho sứ mạng truyền giáo và bác ái, cha đã tổ chức nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực: hỗ trợ các gia đình nghèo, xây nhà cho người vô gia cư, đón tiếp và an ủi thanh thiếu niên trong hoàn cảnh khó khăn, nâng đỡ học vấn cho trẻ em nghèo. Dù đã trải qua sáu ca phẫu thuật tim, nhưng ngọn lửa truyền giáo trong lòng cha Đaminh vẫn luôn cháy sáng. Là cựu Thư ký Caritas Việt Nam và nguyên Giám đốc quốc gia các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, cha còn đảm nhận công việc chuyển ngữ các văn kiện và huấn từ của các Đức Giáo hoàng sang tiếng Việt – như Tông huấn Evangelii Gaudium của Đức Thánh Cha Phanxicô – để các tín hữu Việt Nam có thể dễ dàng học hỏi và suy gẫm. Cha kết lại bằng lời chứng sâu sắc: “Tôi nhận ra rằng Đức Giêsu Kitô luôn ở bên tôi, nâng đỡ tôi, và luôn an ủi tôi bằng chính Lời của Người trong Tin Mừng.”

Chuyển ngữ: Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD

Từ: osservatoreromano.va/it