
Nhà khảo luận Jean Duchesne kể lại thánh lễ thời thơ ấu của ông khi bà của ông đón nhận ơn Chúa, bà không tìm cách chiếm hữu ơn. Đức tin đơn sơ không phải đến nhà thờ để bày tỏ đức tin hay duy trì thói quen, đức tin là để nhận ơn nhiều hơn những gì chúng ta mong chờ.
Khi đi ngang qua nhà thờ Norman, nhà thờ bà thường đưa tôi đi lễ ngày chúa nhật khi chỉ có bà và tôi, sau thời gian nghỉ hè của cha mẹ tôi, tôi luôn nhớ quãng thời gian này. Tôi tự hỏi không biết bà còn trong ký ức những vết thương khủng khiếp của hai Thế chiến có còn tác động trên bà không.
Sách lễ
Bà đội mũ (có mạng che mặt), mang găng tay, bà xem bà có tiền lẻ cho bà và cho tôi để bỏ oi không, bà đem theo quyển sách lễ dày cộp với vô số thiệp cầu nguyện, thiệp rửa tội, thiệp thêm sức, thiệp tang lễ… Tôi có quyển sách lễ nhỏ hơn, bìa da màu be, mạ vàng ở các cạnh, có một số ảnh cuộc đời Chúa Giêsu, tôi nhận ra Ngài khi nhìn hình ảnh Ngài ở mọi nơi trong nhà thờ, trong nhà tôi.
Nhưng sách lễ là để chứng tỏ mình đi nhà thờ vì ít ai theo dõi sách lễ. Sau khi bà ngồi “chỗ của bà” ở bàn quỳ bên trái, nhìn rõ bàn thờ, bà không bao giờ mở “sách lễ giáo dân” như bà thường gọi và cũng không nhắc tôi mở sách của tôi. Tôi có những lo ngại khi mở sách: tôi tự cô lập tôi. Tôi nhận ra đây không phải là quyển sách bình thường, tôi chỉ cần đọc trang đầu tiên, sau đó theo dõi thánh lễ. Vì thế tôi không biết phải bắt đầu từ đâu và cũng không ai nói cho tôi biết điều gì.
Ở cuối nhà thờ
Không có lời giải thích hay hướng dẫn nào thêm trong suốt thánh lễ: tất cả những gì tôi phải làm là đứng lên, ngồi xuống, làm dấu thánh giá, quỳ xuống, đấm ngực, cúi đầu khi nghe chú giúp lễ rung chuông, mọi người cùng làm như nhau. Có những bài hát được đàn phong cầm đệm, hầu hết bằng tiếng la-tinh hoặc tiếng hy lạp: Kyrie…, nhưng khi đó tôi còn nhỏ, tôi chưa biết. Tất cả giai điệu đều giống nhau nên những những giai điệu trở nên khó quên, chỉ có một ít giáo dân đáp trả, đa số mấp máy môi hoặc chờ câu kinh tiếp hoặc chìm trong giấc mơ.
Có một nghi thức khác, linh mục nói gì đó với các em bé giúp lễ màu áo đỏ đang đi bên cạnh, chúng tôi không thấy cha làm gì, chỉ thấy thỉnh thoảng cha di chuyển quyển sách lễ từ bên này qua bên kia, và thỉnh thoảng quay về chúng tôi nói gì đó tôi nghe không rõ. Bài giảng là thời gian đáng sợ, vì khi đã lên bục giảng bên trái nhà thờ, đối diện với dãy ghế của những người nổi tiếng ngồi, linh mục giảng bằng tiếng Pháp, rất dài, chẳng ai nghe cho đến khi ông dừng lại. Tôi tự hỏi tội lỗi mà linh mục cảnh báo là tội gì và hình phạt ở địa ngục có thực sự khủng khiếp như vậy không. Nhưng tôi hiểu mọi sự sẽ ổn nếu chúng ta khôn ngoan và làm theo lời khuyên tốt của Giáo hội.
Nâng cao và tuân phục
Sự căng thẳng lên cao điểm khi linh mục chủ tế quay lại bàn thờ, ngài cầm trên tay một chiếc đĩa nhỏ màu trắng, sau đó là chiếc ly vàng, ngài cúi xuống thì thầm những lời tôi không nghe được. Sau đó ngài lần lượt dâng của lễ, rồi quỳ xuống thờ lạy. Giáo dân trong nhà thờ cúi đầu, chú giúp lễ rung chuông để mọi người cúi đầu thờ lạy. Sau đó là rước lễ, chỉ một ít giáo dân quỳ rước lễ như bà tôi, họ rước lễ bằng miệng, chú giúp lễ để chiếc đĩa nhỏ dưới cằm họ, ca đoàn tiếp tục hát.
Cho đến chúa nhật sau
Rước lễ xong họ về chỗ, họ im lặng vài phút, họ cầu nguyện, hai tay chắp lại. Giáo dân bắt đầu rời nhà thờ, thường là các giáo dân đi trễ. Linh mục lau chén thánh rồi đọc lời cầu nguyện bằng tiếng la-tinh. Thánh lễ kết thúc với một hoặc hai bài hát về Đức Mẹ.
Và rồi chúng tôi không nói gì về thánh lễ cho đến chúa nhật tuần sau, ngoại trừ thỉnh thoảng bà tôi hỏi tôi về bài giảng xem tôi có hiểu không, tôi có đọc kinh không. Buổi sáng và buổi tối, tôi đều đọc kinh giống nhau: một Kinh Lạy Cha, một Kinh Kính Mừng, một Kinh Sáng Danh, tôi đã thuộc lòng vì đã nghe, đã đọc một cách máy móc trước khi đi ngủ.
Đức tin của người đốt than
Mọi thứ đã thay đổi. Giáo dân cho rằng do cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II. Nhưng Thánh lễ vẫn khó hiểu với bất kỳ ai, bất kể tuổi tác, những người chưa được hướng dẫn về đức tin. Điều đã biến mất – hoặc ít nhất không còn là biểu tượng nữa, đó là lòng mộ đạo của bà tôi, không thay đổi, không bộc phát. Bà bằng lòng với lòng mộ đạo thuần túy hình thức, không biểu lộ những cảm xúc riêng tư. Sẽ không đúng khi cho rằng bà không có mối quan hệ cá nhân và chân thành với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng như với Đức Mẹ, các thánh của bà, các “người thân yêu” đã khuất của bà. Lòng trung thành của bà với “bổn phận” đơn thuần làm chứng cho đức tin, không cần nói ra.
Liệu bà tôi có mất phương hướng khi dự các buổi cử hành Thánh Thể ngày nay không? Tôi không tin, vì cuối cùng phụng vụ không còn quan trọng với bà nữa: những gì Giáo hội, là thể chế duy nhất có thể làm, đã mang Chúa đến cho bà là đã đủ, Giáo hội đã nuôi dưỡng các mong chờ của bà. Đây chính là điều mà chúng ta thường gọi là “đức tin của người thợ mỏ than.” Ngày nay người ta xem thường nhưng điều này có hai ưu điểm. Một là không nên trở thành người theo chủ nghĩa tinh hoa, hai là chúng ta để mình được thúc đẩy bởi những gì mình nhận được ở nhà thờ mà không tìm cách định trước hay chiếm đoạt nó.
Marta An Nguyễn dịch(phanxico.vn