
Có hai thành tựu của Công đồng Vaticanô II, một là thần học về mạc khải mà chúng ta tìm thấy trong Hiến chế Dei Verbum; hai là Giáo hội học, tức thần học về Giáo hội, được trình bày trong Hiến chế Lumen Gentium và các tài liệu khác. Theo tôi, hai thành tựu này chưa bao giờ được thực hiện đầy đủ, và có lẽ đối với Lumen Gentium thì chưa bao giờ được thực hiện chút nào. Khi đưa ra chủ đề “Sự đồng trách nhiệm đối với bản chất và sứ mạng của Giáo hội” như Đức Bênêđictô XVI đã làm, là nhắc đến Giáo hội học này như một sự phát triển bị ngưng trệ, một tầm nhìn chưa được hoàn thành, và một nhiệm vụ chưa được thực hiện trọn vẹn.
Việc Đức Bênêđictô đề cập đến vấn đề này được thể hiện rõ từ bối cảnh ngài trình bày ý tưởng trong bài diễn văn quan trọng mà trong đó điều này xuất hiện, bài Diễn văn vào năm 2009 của ngài tại Đại hội Mục vụ của Giáo phận Rôma, phát biểu với tư cách giám mục địa phương tại nhà thờ chính tòa của mình là Vương cung thánh đường Gioan Lateran, với tiêu đề, “Đồng trách nhiệm đối với bản chất và hoạt động của Giáo hội”, và phụ đề “Tư cách thành viên Giáo hội và đồng trách nhiệm mục vụ”. Bối cảnh của bài diễn từ là cam kết đổi mới của giáo phận Roma dành ưu tiên cho công việc mục vụ tại các giáo xứ địa phương. Đức Bênêđictô nhấn mạnh rằng:
“Cam kết này… phải dựa trên một nhận thức đổi mới về việc chúng ta là Giáo hội và về sự đồng trách nhiệm mục vụ mà, nhân danh Đức Kitô, tất cả chúng ta đều được mời gọi thực thi. Và chính về khía cạnh này mà giờ đây tôi muốn suy tư”.
Đức Bênêđictô giải thích:
“Giáo hội, vốn bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, là một mầu nhiệm hiệp thông. Là sự hiệp thông, Giáo hội không chỉ là một thực tại thiêng liêng mà còn sống trong lịch sử, có thể nói là, bằng xương bằng thịt. Công đồng Vatican II mô tả Giáo hội “về bản chất là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất mọi người” (LG, 1.1). Sự hiệp thông này được thể hiện qua hai hình ảnh song đôi là “Dân Thiên Chúa” và “Nhiệm thể Đức Kitô”, trong đó “Dân Thiên Chúa” diễn tả tính liên tục của lịch sử Giáo hội, và “Nhiệm thể Đức Kitô” diễn tả tính phổ quát được khai mở nơi Thập Giá và Sự Phục Sinh của Chúa.
Tiếp tục suy tư trong bài diễn văn, Đức Bênêđictô chia sẻ thêm về mầu nhiệm Giáo hội được thể hiện qua hai hình ảnh song đôi này, đồng thời cho thấy chúng hội tụ, và là một hiệu quả của Thánh Thể ra sao:
Trong sự Phục Sinh, Đức Kitô liên kết tất cả chúng ta trong Bí tích để làm cho chúng ta trở thành một Thân thể. Như vậy, khái niệm “Dân Thiên Chúa” và “Nhiệm thể Đức Kitô” bổ túc cho nhau: trong Đức Kitô, chúng ta thực sự trở thành Dân Thiên Chúa. Do đó, “Dân Thiên Chúa” có nghĩa là “tất cả”, từ Giáo hoàng đến đứa trẻ vừa mới được rửa tội.
Trong Dân duy nhất này,
Kinh Nguyện Thánh Thể I … phân biệt giữa những người tôi tớ “chúng con là tôi tớ Chúa” và “dân thánh của Chúa” (plebs tua sancta); do đó, nếu muốn làm nổi bật sự khác biệt, thì nên nói về tôi tớ và dân thánh, trong khi thuật ngữ Dân Thiên Chúa diễn tả toàn thể Giáo hội trong bản thể chung của họ.
Do đó, thảo luận về “đồng trách nhiệm” dưới đây được thiết lập như một cuộc thảo luận về mối tương quan giữa hai nhóm người với sứ mạng của Giáo hội và với nhau. Cụ thể, phẩm trật được sắp xếp để phục vụ dân thánh. Mối tương quan này cần được xem xét dưới ánh sáng của thực tế, như Đức Bênêđictô nói:
Việc thức tỉnh các năng lực tu đức và mục vụ diễn ra trong những năm gần đây không phải lúc nào cũng mang lại sự tăng trưởng và phát triển như mong đợi. Thật vậy, cần phải thừa nhận rằng trong một số cộng đoàn giáo hội, giai đoạn nhiệt thành và sáng kiến đã nhường chỗ cho một thời kỳ cam kết suy yếu, một tình trạng mệt mỏi, đôi khi gần như bế tắc.
Đối với Đức Bênêđictô, điều này cho thấy tầm nhìn mang tính giáo hội của Công đồng chưa bao giờ được thực hiện đầy đủ. Ngài nói: “Thực tế này cho chúng ta thấy rằng những trang sáng ngời mà Công đồng dành riêng cho giáo dân vẫn chưa được thích nghi đầy đủ hoặc gây ấn tượng trong tâm trí của người Công giáo hoặc trong các quy trình mục vụ”. Ngài nói tiếp:
“Một đàng, vẫn còn khuynh hướng đồng hóa Giáo hội một cách phiến diện với với hàng giáo phẩm, mà quên đi trách nhiệm chung, sứ vụ chung của Dân Thiên Chúa, mà tất cả chúng ta đều chia sẻ trong Đức Kitô. Đàng khác, vẫn tiếp tục tồn tại xu hướng đồng nhất Dân Thiên Chúa một cách phiến diện,… theo một khái niệm thuần tuý xã hội học hoặc chính trị, mà quên đi tính mới mẻ và đặc thù của dân tộc ấy, vốn chỉ trở thành dân Thiên Chúa nhờ sự hiệp thông với Đức Kitô.”
Ngài tiếp tục: Nói cách khác, đó là khuynh hướng nghĩ rằng Giáo hội chỉ đơn thuần như một tổ chức thế tục trong lịch sử, thay vì là một mầu nhiệm hiệp thông, vốn cũng hiện diện hữu hình trong lịch sử, giống như công ty tàu hoả chở khách Amtrak, nhưng không giống Amtrak. Giáo hội hiệp thông thì vượt lên trên lịch sử. Đó là lý do tại sao Giáo hội là một chân lý đức tin chứ không chỉ đơn giản là một vấn đề quan sát thực nghiệm.
Chính tại điểm này trong bài diễn từ, ý tưởng về sự đồng trách nhiệm đã được nêu lên: “Anh chị em thân mến, đã đến lúc chúng ta tự vấn giáo phận Rôma của chúng ta đã đạt đến điểm nào. Đến mức độ nào thì sự đồng trách nhiệm mục vụ của tất cả mọi người, đặc biệt là của giáo dân, được công nhận và khích lệ?” Hồi tưởng về những thế kỷ trước, trong đó “nhờ chứng tá quảng đại của tất cả những người đã lãnh Phép Rửa, những người dành cả cuộc đời mình để giáo dục các thế hệ mới trong đức tin, chăm sóc bệnh nhân và giúp đỡ người nghèo, cộng đoàn Kitô hữu đã loan báo Tin Mừng cho cư dân Rôma”. Cũng chính sứ mạng loan báo và truyền giảng Tin Mừng này mà Đức Bênêđictô nhấn mạnh như là đối tượng của sự đồng trách nhiệm đối với bản chất và hoạt động của Giáo hội. Ngài nói,
Một trong những thành quả của việc Giáo phận Roma chú ý nhiều hơn đến công việc mục vụ của các giáo xứ là:
Giúp phát triển trong các giáo xứ, cộng đoàn tu trì, hiệp hội và phong trào một ý thức thuộc về một Dân Thiên Chúa duy nhất, dân mà, như Thánh Tông đồ Phêrô đã nói, Thiên Chúa đã làm của riêng mình: “để loan truyền những kỳ công của Người” (1Pr 2,9).
Trích dẫn câu này là gợi lên ý tưởng Dân Thiên Chúa là hàng tư tế vương giả, trong đó mỗi thành viên, dựa trên Phép Rửa của mình, tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô: “Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Ðấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”. Thần học về sự đồng trách nhiệm khởi đầu bằng việc viện dẫn sự tái khám phá của Công đồng Vatican II về chức tư tế của những người đã lãnh Phép Rửa, mầu nhiệm Dân Thiên Chúa như một hàng tư tế vương giả, với mỗi thành viên được mời gọi hướng tới ơn gọi ngôn sứ, vương giả và tư tế để “loan truyền những kỳ công của Người, Ðấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền,” tức là sứ mạng, loan báo Tin Mừng.
Đức Bênêđictô nhận xét một cách dí dỏm: “Vẫn còn một chặng đường dài phía trước…. So với số lượng dân cư trong mỗi giáo xứ, những giáo dân sẵn sàng làm việc trong các lĩnh vực tông đồ khác nhau… vẫn còn rất ít và rải rác”. Nói cách khác, các nhà lãnh đạo giáo dân ở đâu trong sứ mạng của Giáo hội, các dự án do giáo dân lãnh đạo, các sáng kiến của giáo dân, công việc của “dân thánh,” được phục vụ bởi hàng giáo phẩm? Và cần điều gì để thúc đẩy điều đó?
Ngài nói, trước hết, chúng ta phải cải thiện việc đào tạo cho mọi người sao cho việc đó “lưu tâm và tập trung hơn vào tầm nhìn của Giáo hội”, và điều này áp dụng cho tất cả mọi người, “đối với các linh mục cũng như các tu sĩ và giáo dân để ngày càng hiểu rõ hơn về Giáo hội này là gì, là Dân Thiên Chúa trong Thân thể Đức Kitô”. Hãy lưu ý sự cần thiết của việc chiêm niệm sâu xa hơn và tiếp nhận mầu nhiệm Giáo hội, vì nếu không có điều đó thì việc đào tạo này không thể thực hiện được. Nhưng vì sự cần thiết đó, điều này cũng bao hàm một yêu cầu khác, đó là, “cải thiện các cơ cấu mục vụ sao cho sự đồng trách nhiệm của mọi thành phần Dân Thiên Chúa nói chung được thăng tiến dần dần, với sự tôn trọng ơn gọi và vai trò tương ứng của những người được thánh hiến và của giáo dân”.
Như vậy, đồng trách nhiệm không chỉ liên quan đến giáo dân. Tuy nhiên, cách chúng ta suy nghĩ về giáo dân trong mối liên hệ với sứ mạng của Giáo hội là một mảnh ghép quan trọng của vấn đề nan giải. Ngài nói, điều này cần cải tiến các cơ cấu mục vụ, đòi hỏi một sự thay đổi tư duy, đặc biệt là liên quan đến giáo dân. Giáo dân không còn bị xem như những “cộng tác viên” của hàng giáo sĩ mà phải thực sự được công nhận là “đồng trách nhiệm” đối với bản chất và hoạt động của Giáo hội, từ đó thúc đẩy việc củng cố một hàng ngũ giáo dân trưởng thành và dấn thân.
Vấn đề đồng trách nhiệm của giáo dân là một phần quan trọng trong vấn đề lớn hơn về tư cách lãnh đạo trong sứ mạng của Giáo hội, bởi vì nó là một chức năng của vấn đề lớn hơn không chỉ của giáo dân, mà còn của mối tương quan giữa chức tư tế của người đã lãnh Phép Rửa, được ban qua bí tích Rửa tội, và chức tư tế, “khác nhau về bản chất chứ không chỉ về cấp bậc” của thừa tác viên chức thánh.
Chúng ta có thể thấy điều này qua câu tiếp theo trong bài diễn văn của Đức Bênêđíctô rằng, thần học về sự đồng trách nhiệm thực sự biến thành một thần học về mối tương quan giữa chức tư tế vương giả của những người đã lãnh Phép Rửa và chức tư tế không bắt nguồn từ bí tích Rửa tội nhưng từ bí tích Truyền chức:
Ý thức chung về việc trở thành Giáo hội của tất cả những người đã lãnh phép Rửa không làm giảm trách nhiệm của các cha xứ. Chính các cha, các cha xứ thân mến, có nhiệm vụ nuôi dưỡng sự trưởng thành thiêng liêng và tông đồ của những người đã dấn thân làm việc tích cực trong các giáo xứ. Họ tạo thành nòng cốt của cộng đoàn, hoạt động như men giữa những người khác.
Ở đây có một hình ảnh về vai trò lãnh đạo giáo dân. Đức Bênêđictô nhấn mạnh các nhà lãnh đạo thực sự trong sứ mạng của Giáo hội, những người không được truyền chức, là thành viên của “dân thánh”, được phục vụ bởi những người được truyền chức trong vai trò lãnh đạo phục vụ, đặc thù của việc thực thi chức tư tế (được truyền chức) của họ.
Có một vai trò lãnh đạo, vốn thuộc về chức tư tế vương giả của những người đã lãnh Phép Rửa, và do đó áp dụng cho cả giáo dân và tu sĩ, và có một vai trò lãnh đạo, vốn thuộc về Chức thánh, được đặt ra để phục vụ vai trò lãnh đạo của “dân”. Tóm lại, đó là giáo hội học mà từ đó ý tưởng về “đồng trách nhiệm” được phát triển, bắt nguồn từ việc tái khám phá chức tư tế của những người đã lãnh Phép Rửa và một sự đánh giá mới tương ứng đối với chức tư tế thừa tác trong mối tương quan với nó, như được nêu trong Hiến chế Lumen Gentium.
Tông huấn Evangelii Gaudium của Đức giáo hoàng Phanxicô ở nền tảng chính là phiên bản của tầm nhìn này. Bài diễn văn của Đức Bênêđictô nhấn mạnh sự tập trung xuyên suốt vào công cuộc loan báo Tin Mừng, và Đức Phanxicô đảm nhận điều này với tinh thần và sức mạnh mới. Ngài nhắc lại rằng loan báo Tin Mừng là “‘nhiệm vụ hàng đầu‘” của Giáo hội (EG 15, trích dẫn Đức Gioan Phaolô II). Hơn nữa, giống như Đức Bênêđictô, Đức Phanxicô khẳng định rằng nhiệm vụ loan báo Tin Mừng thuộc về toàn thể Giáo hội: “Loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của Giáo hội” (EG, 111), và ngài tiếp tục lặp lại lời Đức Bênêđictô khi nói rằng Giáo hội là một “mầu nhiệm bắt nguồn từ Ba Ngôi”, đồng thời hiện diện “một cách cụ thể trong lịch sử như một dân lữ hành và như là những người loan báo Tin Mừng, vượt lên trên mọi hình thức mang tính tổ chức, dù cần thiết” (sđd). Đây chính là sự cân bằng mà chúng ta đã thấy nơi Đức Bênêđictô – Giáo hội như một mầu nhiệm hiệp thông, vừa hữu hình trong lịch sử nhưng không thể bị giản lược, giống như Amtrak. Giáo hội hiện hữu vì tình yêu thế giới – vì Thiên Chúa quá yêu thế gian (Ga 3,16) – và vì thế, Giáo hội phải ở trong thế gian, nhưng chính vì lý do đó, như Đức Bênêđictô đã giải thích, Giáo hội không thể giản lược thành một tổ chức chính trị – xã hội, về cơ bản là một cơ cấu quyền lực thế tục.
Đức Phanxicô nói, ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là “‘tính ưu việt của việc loan báo Chúa Giêsu Kitô’” (EG,110). Chính tính ưu việt này đồng thời có nghĩa là lời loan báo của chúng ta bao hàm lời mời gọi bước vào mầu nhiệm hiệp thông, được diễn ra trong thời gian và không gian, nói cách khác, là lời kêu gọi trở thành thành viên của Giáo hội, vì, Đức Phanxicô nhắc nhở chúng ta khi trích dẫn Hiến chế Lumen Gentium, “’Thiên Chúa đã chọn để mời gọi con người lại với nhau như một dân chứ không phải như những cá nhân riêng lẻ”, và “dân mà Thiên Chúa đã chọn và kêu gọi chính là Giáo hội” (EG, 113).
Như Đức Phanxicô giải thích, đặc tính giáo hội của việc loan báo Tin Mừng phát xuất từ ân sủng của bí tích Rửa tội (EG, 112, trích dẫn Đức Bênêđictô về tính ưu việt của ân sủng). Sứ mạng loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo hội như là sự hiệp thông trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, nghĩa là, sứ mạng loan báo Tin Mừng là bản chất của bí tích Rửa tội: “Nơi tất cả những người đã được rửa tội, từ người đầu tiên cho đến người cuối cùng, sức mạnh thánh hoá của Chúa Thánh Thần luôn hoạt động và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng”. Tiếp tục, Đức Phanxicô nói rằng “Dân Thiên Chúa là dân thánh nhờ sự xức dầu này” (EG, 119), và ám chỉ đến 1Pr 2, 9, ngài nhấn mạnh rằng:
Do phép Rửa tội, mọi thành viên của Dân Thiên Chúa phải trở nên những môn đệ truyền giáo (xem Mt 28,19). Tất cả những ai đã được rửa tội, dù ở vị trí nào trong Giáo hội hay ở mức độ đào luyện nào về đức tin, cũng đều là những nhà truyền giáo, và sẽ là bất cập nếu chỉ nghĩ đến một kế hoạch truyền giáo được thực hiện bởi những nhà truyền giáo chuyên nghiệp trong khi số các tín hữu khác chỉ là những người thụ hưởng thụ động (EG, 120).
Đây là một tầm nhìn về tư cách lãnh đạo, và nó phát xuất không phải từ việc tham gia vào thừa tác vụ cụ thể của người được truyền chức và không phải như một chức năng của Chức Thánh, nhưng từ bí tích Rửa tội. Trong “nhiệm vụ hàng đầu” của Giáo hội, việc lãnh đạo – một nhiệm vụ mang tính giáo hội, không bị giới hạn trong một tầng lớp “chuyên gia” trong Giáo hội.
“Mọi Kitô hữu đều được thách thức, ở đây và lúc này, tích cực tham gia vào việc truyền giáo; thực vậy, bất cứ ai đã thực sự trải nghiệm tình thương cứu độ của Thiên Chúa thì không cần nhiều thời gian hay một sự đào tạo lâu để đi rao giảng tình thương ấy” (EG, 120). Tôi thấy điều này hết sức mới mẻ. Trọng lực của Giáo hội dường như được tái tập trung không phải vào hàng giáo phẩm nhưng là người đã lãnh Phép Rửa, những người được mời gọi loan báo Tin Mừng, dù không phải bằng việc thành lập Giáo hội của riêng họ – vì đó không phải là loan báo Tin Mừng – mà bằng việc mời gọi mọi người gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô trong và qua sự hiệp thông giáo hội. Bởi vì ân sủng của Phép Rửa không phải là một ân ban tuyệt đối, độc lập, và tự quy chiếu. Đó là một sự đồng dạng với Mầu nhiệm Vượt qua và do đó, với hy tế của Đức Kitô, vốn là nền tảng cho sự hiệp thông của Giáo hội. Vì thế, bí tích Rửa tội tự bản chất được định hướng đến sự hiệp thông Thánh Thể.
Tiếp tục lặp lại diễn văn của Đức Bênêđictô, Đức Phanxicô dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dân, những người mà theo ngài, “rõ ràng là thành phần đại đa số của Dân Thiên Chúa. Thành phần thiểu số –các thừa tác viên có chức thánh– là để phục vụ giáo dân” (EG, 102). Đây gần như là một tiếng vang trực tiếp của sự phân biệt “người phục vụ” / “dân” mà Đức Bênêđictô đã nêu, mặc dù “dân” bao gồm không chỉ giáo dân, mà cả các tu sĩ. Đức Phanxicô kêu gọi sự chú ý đến “trách nhiệm của giáo dân, bắt nguồn từ bí tích Rửa tội và Thêm sức của họ,” và một lần nữa, lặp lại lời Đức Bênêđictô, ngài chỉ ra rằng trách nhiệm này đã được đón nhận và đào tạo một cách không đồng đều, vì nhiều lý do. Ngài nói: “Trong một số trường hợp, lý do là vì người giáo dân chưa được cung cấp một sự đào tạo cần thiết để đảm nhận những trách nhiệm quan trọng”. Trong khi ở những trường hợp khác, đó là “do chủ trương giáo sĩ trị thái quá” (EG, 102). Theo tôi, “giáo sĩ trị thái quá” là một mô tả về tình huống mà trong suy nghĩ của mọi người, cả trong và ngoài Giáo hội, “Giáo hội” có nghĩa là phẩm trật.
Vậy thì đâu là nền tảng thần học và đặc biệt là giáo hội học cho lý thuyết về đồng trách nhiệm? Chúng ta đã có những nét phác thảo về nó từ việc xem xét các nhận định của hai vị Giáo hoàng gần đây nhất, nhưng các ngài chỉ dựa trên các tài liệu của Công đồng Vatican II. Hiến chế Lumen Gentium, trong chương về Dân Thiên Chúa, mô tả hai chức tư tế trong Giáo Hội:
Dù khác nhau về yếu tính chứ không phải chỉ về cấp bậc, nhưng cả hai đều được đặt định tương quan với nhau; thật vậy, theo cách thức riêng của mình, mỗi bên đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô. Linh mục thừa tác, nhờ năng lực thánh thiêng nhận được, xây dựng, dạy dỗ và cai quản đoàn dân tư tế, thực hiện hy tế Thánh Thể với tư cách là hiện thân của Đức Kitô và dâng hiến lễ lên cho Thiên Chúa nhân danh toàn dân; phần các tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả, tham dự vào việc dâng Thánh Thể và thi hành chức tư tế đó bằng việc lãnh nhận các bí tích, cầu nguyện và tạ ơn, bằng chứng tá đời sống thánh thiện, từ bỏ mình và bác ái tích cực (LG, 10).
Có một sự lãnh đạo gắn liền với chức tư tế phẩm trật, đó là sự quản trị mục vụ, sự giảng dạy có thẩm quyền và sự thánh hóa, và điều đó được nêu rõ trong văn bản. Nhưng điều quan trọng cần lưu ý là những điều không được nói đến. Chức tư tế phẩm trật không “hơn” chức tư tế mà những người đã lãnh Phép Rửa có được. Chức tư tế phẩm trật không phải là một chức tư tế thượng đẳng, bằng cách nào đó hoàn thiện, thay thế hoặc vượt trội chức tư tế chung. Bạn không thể có được chức tư tế “nhiều hơn” so với chức tư tế đánh dấu toàn thể Giáo hội. Vì điều đó có nghĩa là có một Giáo hội bên trong gồm những siêu Kitô hữu, phẩm trật, và điều đó, dường như, là bản chất của giáo sĩ trị. Do đó, nói rằng hai việc tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô khác nhau về bản chất, rằng sự khác biệt không chỉ là sự khác biệt về mức độ, là điều quan trọng.
Trớ trêu thay, có lẽ chính tài liệu của Công đồng về chức tư tế lại cung cấp những nguồn tài liệu hứa hẹn nhất để làm nền tảng và diễn giải lý thuyết về đồng trách nhiệm. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis của Công đồng Vatican II về Thừa tác vụ và Đời sống Linh mục bắt đầu với việc mời độc giả suy tư về mầu nhiệm của toàn thể Giáo hội như một thân thể tư tế:
Chúa Giê-su, “Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trần gian” (Ga 10,36), đã ban cho toàn thân thể mầu nhiệm của Người được thông phần vào việc xức dầu của Thánh Thần mà Người đã lãnh nhận. Trong thân thể đó, mọi tín hữu đều được đặt vào hàng tư tế thánh thiện và vương giả, hiến dâng lên Thiên Chúa những lễ tế thiêng liêng nhờ Đức Giêsu Kitô, và họ loan báo những kỳ công của Đấng đã gọi họ ra khỏi tối tăm để vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (x. 1Pr 2,5.9).
Hóa ra, cả Đức Bênêđíctô và Đức Phanxicô đều bắt đầu ở cùng một chỗ là sự nhắc nhở về mầu nhiệm của toàn thể Giáo hội, bởi vì các ngài đang theo sát Presbyterorum Ordinis. Trong tài liệu này, tiếp ngay sau đoạn trên là tuyên bố “Vì thế, không có thành viên nào mà không được chia sẻ trong sứ vụ của toàn thân thể. Trái lại, mọi thành viên đều phải tôn kính Chúa Giêsu trong lòng mình (x. 1Pr 3,15) và nhờ tinh thần ngôn sứ mà làm chứng cho Chúa Giêsu”, điều này minh chứng cho ưu tiên mà Đức Bênêđictô và Đức Phanxicô đã dành cho việc loan báo Tin Mừng như là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo hội, một nhiệm vụ mà tất cả mọi người đều được tham gia. Đức Bênêđictô và Đức Phanxicô đã phát huy tầm nhìn này.
Để hỗ trợ và thực sự để xây dựng vương quốc, dân tư tế và tất cả các thành viên của vương quốc trong sứ mạng của mình, sao cho những hy lễ thiêng liêng của họ thực sự được thực hiện “nhờ Đức Kitô”, một sự tham gia khác vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, không khác nhau về mức độ nhưng về hình thức so với sự tham gia được ban trong bí tích Rửa tội, được trao ban qua một bí tích riêng. Tài liệu tiếp tục lặp lại nhưng cũng mở rộng tư tưởng của Lumen Gentium:
Thánh chức linh mục, tuy lãnh nhận sau các bí tích khai tâm Kitô giáo, nhưng lại được trao ban qua một bí tích đặc thù, ghi khắc một ấn tích đặc biệt nơi các linh mục nhờ việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, như thế, các ngài nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô linh mục, đến nỗi có quyền hành động với tư cách là hiện thân của Đức Kitô là Đầu (PO 2).
Điều này, trong số các lý do khác, là bởi vì “Không cộng đoàn Kitô hữu nào được xây dựng mà không xuất phát từ và quy hướng về việc cử hành bí tích Thánh Thể cực thánh” (PO 6), và trong bí tích Thánh Thể, chính Đức Kitô hành động, qua trung gian người linh mục được truyền chức. Giáo hội là một “bí tích – dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” và điều này chỉ có thể thực hiện được “trong Đức Kitô” (LG 1), chứ không phải trên cơ sở các việc làm hoặc nhân đức của riêng Giáo hội – cũng là của chúng ta. Giáo hội được gắn kết với nhau không phải nhờ các công việc hay nhân đức của chúng ta, nhưng nhờ hy tế của Đức Kitô, và hy tế đó được hiện tại hóa một cách hữu hiệu trong Bí tích Thánh Thể, qua đó, “làm nên” Giáo hội (GLCG 1396, x. 1325), làm nên Dân duy nhất của Thiên Chúa. Bí tích Truyền chức bảo đảm rằng linh mục không đại diện cho chính mình như “đầu” của cộng đoàn, mà là đại diện cho Đức Kitô, để sự hiện diện của Đức Kitô hoàn toàn là kết quả từ lời hứa của Ngài sẽ ở cùng chúng ta cho đến “tận thế” (Mt 28,20), một chức năng của ân sủng, chứ không phải là do công trạng hay công việc của con người. Nếu không, Giáo hội trở thành một sự hiệp thông do chính chúng ta tạo ra.
Có lẽ trong đoạn văn cao cả nhất của Presbyterorum Ordinis, Bí tích Thánh Thể được mô tả là “nguồn mạch và chóp đỉnh của mọi việc rao giảng Tin Mừng” (PO 5). Thật vậy,
Các bí tích khác, và thực sự là mọi thừa tác vụ giáo hội cũng như hoạt động tông đồ đều gắn kết với Thánh Thể và quy hướng về đó. Vì nơi bí tích Thánh Thể cực trọng chứa đựng toàn bộ kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, tức là chính Đức Kitô, Chiên Vượt Qua và bánh trường sinh của chúng ta.
Việc xây dựng Giáo hội không chỉ đơn thuần là tăng thêm số lượng một nhóm do con người thành lập qua việc rao giảng – tức là chiêu mộ – mà đúng hơn, việc rao giảng hướng đến việc kết hợp mọi người vào một Thân thể duy nhất – Thân thể của Đức Kitô chứ không phải “thân thể” của chúng ta – vào một Dân duy nhất của Thiên Chúa – chứ không phải dân “của chúng ta”– qua việc họ lãnh nhận các bí tích khai tâm, vốn được định hướng đến bí tích Thánh Thể, mà qua đó, mọi người được kết hiệp trọn vẹn (x. GLCG 1396) vào Thân Thể của Đức Kitô và chức tư tế vương giả của Người.
Nói cách khác, thừa tác vụ chức thánh không được thiết lập cho chính mình, mà hướng về chính dân tư tế, và chức tư tế được truyền chức vẫn giữ bản chất nền tảng của mình là thông phần vào chức tư tế của Đức Kitô, vốn cấu thành nên Giáo hội. Mặt khác, khi những người đã lãnh Phép Rửa thi hành chức tư tế vương giả của họ trong việc loan báo Tin Mừng, thì điều này không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức về Lời Chúa đã bị tách rời khỏi ngôi nhà mang tính giáo hội của họ, vì khi đó, nó không thực sự là một chức tư tế, vì sự hiệp thông của Giáo hội chính là sự hiệp thông trong hy lễ của Đức Kitô. Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là đưa con người đến gặp gỡ Chúa Phục sinh, qua đó họ được tháp nhập vào Thân thể Thánh Thể nhờ việc kết hợp với hy tế của Đức Kitô.
Chức tư tế của những người đã lãnh Phép Rửa, xét như một chức tư tế, bắt nguồn từ hy tế duy nhất của Đức Kitô và do đó, việc thực thi chức tư tế này tự bản chất hướng về hy tế ấy. Điều này có nghĩa là chức tư tế của những người đã lãnh Phép Rửa không thể được thi hành cách trọn vẹn nếu tách rời khỏi thừa tác vụ chức thánh, và cũng không thực sự được thi hành nếu nó dẫn đến sự rạn nứt trong hiệp thông thay vì xây dựng sự hiệp thông. Điều này bao gồm cả những hoạt động loan báo Tin Mừng mà lại bác bỏ giáo huấn có thẩm quyền của huấn quyền, hoặc đi ngược lại quyền bính phẩm trật hợp pháp. Đồng thời, điều đó không có nghĩa là cần phải xin phép: “không cần phải có một ủy nhiệm bổ sung từ hàng giáo phẩm” để thi hành bổn phận loan báo Đức Kitô, vốn là điều phát xuất “nhờ ân sủng của Phép Rửa” (Torrell, 130). Hai chức tư tế này có mối liên hệ hỗ tương, và vì thế, chúng ta có sự đồng trách nhiệm trong sự tồn tại và hoạt động của Giáo hội.
Một đàng:
Cách tốt nhất để đặt tác vụ linh mục vào trong Giáo hội xét như là dân tư tế… là nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của chức tư tế hệ tại việc làm cho chức tư tế vương giả hoặc thiêng liêng phát triển để, như lời Thánh Augustinô, toàn bộ Thành thánh của Thiên Chúa có thể trở thành một hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô (Torrell, 126).
Chức tư tế vương giả vẫn giữ vai trò ưu tiên như là mục đích mà chức tư tế thừa tác hướng tới: “Thừa tác viên Kitô không chỉ được định nghĩa qua mối liên hệ với Thân Thể Thánh Thể, mà còn, qua chính điều đó, với Thân Thể mầu nhiệm, mà họ được giao trách nhiệm theo mức độ trách nhiệm của mình” (sđd.). Đàng khác, việc thi hành chức tư tế phép rửa luôn hướng tới việc thúc đẩy hy lễ thiêng liêng mà mọi người được mời gọi, và vì vậy nó hướng tới sự hiệp thông của Giáo hội, chỉ có thể thực hiện qua thừa tác vụ bí tích của các linh mục. Torrell chỉ ra rằng, như chúng ta đã thấy “Thánh Thể không chỉ được trình bày như là trung tâm của toàn bộ cơ cấu bí tích, mà còn là ‘nguồn mạch và chóp đỉnh của mọi hoạt động rao giảng Phúc âm’”. Sau đó, ông nhận xét thêm: “Điều này có nghĩa là việc loan báo Tin Mừng không chỉ được ‘khởi xướng’ từ việc cử hành phụng vụ Thánh Thể, nơi mang lại sự phong phú của nó, mà còn ‘quy tụ’ về đó, bởi vì chỉ qua Thánh Thể mà các tín hữu được tháp nhập trọn vẹn vào Thân Thể Đức Kitô” (sđd. 181).
Phát triển giáo huấn của Presbyterorum Ordinis, Tông huấn Pastores Dabo Vobis của Đức Gioan Phaolô II lưu ý rằng, chính “vì chức tư tế phổ quát của giao ước mới” (số 14) mà chức tư tế thừa tác tồn tại. Một lần nữa, “vai trò và nhiệm vụ của linh mục trong Giáo hội không thay thế mà thúc đẩy chức tư tế Phép Rửa của toàn thể Dân Thiên Chúa” (PDV, 17 trích dẫn PO, 10). Đức Gioan Phaolô II tiếp tục nhận xét rằng “ngày nay, nhiệm vụ mục vụ cấp bách của công cuộc tân Phúc âm hóa đòi hỏi sự tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa, và đòi hỏi một lòng nhiệt thành mới, những phương pháp mới và một cách diễn đạt mới cho việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng”, và ở đây chúng ta nhận ra nguồn gốc của lời kêu gọi đồng trách nhiệm của Đức Bênêđictô và lời mời gọi trở thành môn đệ thừa sai phổ quát của Đức Phanxicô. Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, nhiệm vụ mới này “đòi hỏi các linh mục phải chìm sâu và trọn vẹn trong mầu nhiệm Đức Kitô, và có khả năng thể hiện một phong cách mục vụ mới…. khuyến khích các vai trò, đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau trong cộng đoàn Giáo hội” (PDV, 18). Đây là lý thuyết về đồng trách nhiệm được trình bày trước khi khái niệm này được phổ biến. Đó là lời kêu gọi lãnh đạo giáo dân và sáng kiến giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng, và kêu gọi các linh mục, vốn là những người sẽ đào tạo, thúc đẩy và nuôi dưỡng vai trò lãnh đạo của giáo dân qua trung gian của chính các ngài, phù hợp với cấp bậc chức thánh của mình, là Đức Kitô, Đấng là Thầy, Thánh hóa và Mục tử.
Một lần nữa, chúng ta thấy rằng thật sai lầm khi chỉ dành từ “tư tế” cho thừa tác vụ chức thánh, như thể chỉ có người được truyền chức mới có trách nhiệm “tư tế” còn những tín hữu khác thì không. Nghĩ như vậy có nghĩa là chức tư tế và ơn gọi tư tế của toàn bộ chức tư tế vương giả có thể bị vượt qua hoặc bị làm lu mờ bởi một chức tư tế khác. Chức tư tế phổ quát của tất cả những người đã lãnh Phép Rửa là chức tư tế chính yếu trong Giáo hội. Nó là “không thể vượt qua” (x.Torrell, 185). Tư cách lãnh đạo trong việc loan báo Tin Mừng tập trung vào việc thực thi chức tư tế này. “Thật sai lầm khi tin rằng” sự tham dự của những người được truyền chức vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô là “cao hơn” kiểu thứ nhất, tức là chức tư tế của Phép Rửa (Torrell, 56), chức tư tế được truyền chức cũng không phải là nguồn gốc của chức tư tế Phép Rửa. Hai chức tư tế này “có mối liên hệ tương hỗ” theo Hiến chế Lumen Gentium (số 10): “rõ ràng không thể suy ra rằng có mối tương quan phụ thuộc của chức tư tế vương giả đối với chức tư tế thừa tác” (Torrell, 141). Chức tư tế được truyền chức không mang tính tư tế nhiều hơn, như thể nó là sự gia tăng thêm cho chức tư tế phổ quát.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là chức tư tế thừa tác là một hình thức tham dự khác vào chức tư tế của Đức Kitô chứ không phải là một mức độ cao hơn của sự tham dự. Chính vì không phải là sự khác biệt về mức độ, nên chức tư tế thừa tác không phải là một phiên bản “nâng cao” hoặc “nhiều chức tư tế hơn” của chức tư tế Phép Rửa. Do đó, không có trò chơi “được-mất” ở đây, nghĩa là người có chức thánh càng có nhiều “chức tư tế” hơn thì các tín hữu khác sẽ càng có “ít hơn”. Kiểu tư duy này chỉ làm tăng thêm giáo sĩ trị, vốn tập trung Giáo hội xung quanh những người được truyền chức, như thể, trong thực tế và trên mọi phương diện, họ là “Giáo hội”. Thực tế thì ngược lại: chức tư tế thừa tác được kêu gọi để xây dựng và nâng cao chức tư tế vương giả, chứ không phải để tự phục vụ chính nó. Đồng trách nhiệm không dựa trên sự khác biệt về mức độ của tính cách tư tế, mà trên hai hình thức tham dự tương hỗ vào đó: chức tư tế này (thừa tác) hướng tới chức tư tế kia (Phép Rửa). Chức tư tế Phép Rửa vẫn là cách thức chính yếu để Giáo hội hiện diện và hành động trong thế giới. Tôi nghĩ rằng chúng ta thậm chí chưa bắt đầu đánh giá đúng thực tế này.
Có lẽ một trong những trở ngại ngăn cản trí tưởng tượng của chúng ta trong việc thực hiện thực tế này, trớ trêu thay, lại chính là khái niệm “thừa tác vụ giáo dân mang tính giáo hội”. Lưu ý rằng tôi nói về “khái niệm” chứ không nói đến những người hiện được gọi là “thừa tác viên giáo dân”, hoặc thực tế là đại loại những người như vậy đang làm việc trong Giáo hội. Viện McGrath về Đời sống Giáo hội, cùng với Khoa Thần học tại Đại học Notre Dame, đào tạo các thừa tác viên giáo dân và chúng ta cần củng cố vai trò của những người như vậy trong Giáo hội chứ phải không làm suy yếu nó. Tuy nhiên, thần học đằng sau cụm từ “thừa tác viên giáo dân” lại có vấn đề, và những ý tưởng có vấn đề thường dẫn đến những hệ quả thực tế có vấn đề. Như đã thấy, theo tài liệu Co-workers in the Vineyard of the Lord của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB), “thừa tác vụ của các linh mục hoàn toàn vì lợi ích của Giáo hội; nhằm mục đích thúc đẩy việc thực thi chức tư tế chung của toàn thể Dân Thiên Chúa” (trích PDV, 16), tức là bao gồm cả công việc loan báo Tin Mừng của giáo dân. Nếu từ “thừa tác vụ” được sử dụng để chỉ việc thi hành chức tư tế của những người đã lãnh Phép Rửa, thì chúng ta vẫn phải nhớ rằng có một “sự phân biệt căn bản giữa thừa tác vụ của giáo dân và thừa tác vụ của người có chức thánh, vốn là một ơn gọi tông đồ đặc biệt”, ngay cả khi, theo Co-workers, “theo nghĩa rộng nhất,” “thừa tác vụ phải được hiểu là sự phục vụ (diakonia) và là phương tiện để hoàn thành sứ mạng trong sự hiệp thông của Giáo hội. Đó là sự tham gia và thể hiện thừa tác vụ của Đức Kitô”. Nhưng ngay ở đây đã có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng từ “thừa tác vụ” bởi vì nghĩa “rộng nhất” này vừa chung chung vừa mơ hồ. Ngay cả khi tài liệu này kêu gọi sự phân biệt, nó vẫn ám chỉ rằng có một nguồn gốc chung cho “thừa tác vụ” trong Giáo hội, mà theo một nghĩa nào đó, thì đúng, nhưng theo một nghĩa khác thì lại sai. Có hai cách để tham dự vào sứ mạng tư tế của Đức Kitô, một là bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội, và một là từ bí tích Truyền chức thánh. Không có sự tham gia nào mang tính chung chung vào “thừa tác vụ” của Đức Kitô nếu không phải là sự tham gia mà mọi Kitô hữu cùng chia sẻ qua Phép Rửa.
Ngôn ngữ của tài liệu này, cùng với việc thường xuyên sử dụng cụm từ “thừa tác vụ Giáo hội” một cách chung chung (như trong Co-Workers trang 12 và 15), khuyến khích chúng ta nhập nhằng giữa hai khái niệm này, ngay cả khi nói rằng chúng ta không nên làm thế, bởi nó cung cấp một phạm trù bao hàm cả hai, nhưng lại khiến sự phân biệt trở nên vô hình và dễ bị xóa nhòa. Một cách diễn đạt khác là “thừa tác viên giáo dân” là người thực thi “thừa tác vụ” phù hợp với chức tư tế phổ quát bằng cách cộng tác với “thừa tác vụ” phù hợp với những người được truyền chức, trong “sự cộng tác chặt chẽ với thừa tác vụ mục vụ của các giám mục, linh mục và phó tế” (Co-Workers). Thực ra, chính cảm thức “cộng tác” này là điều mà Đức Bênêđictô XVI đã đối lập với khái niệm “đồng trách nhiệm”.
Nhưng liệu cách sử dụng từ “thừa tác vụ” này có thực sự vững chắc không? Nó sử dụng cùng một từ, “thừa tác vụ,” nhưng lại đòi hỏi phải hiểu đồng thời theo hai nghĩa khác nhau, một nghĩa phù hợp với việc thực thi chức tư tế phép Rửa, và một nghĩa chỉ phù hợp với việc thực thi chức tư tế thừa tác, trong khi cả hai nghĩa này lại được sử dụng để chỉ cùng một công việc chung. Liệu cách sử dụng này có thực tế hay không? Hoặc có xu hướng gộp hai “thừa tác vụ” lại với nhau, đến mức từ “thừa tác vụ” trong cụm từ này chỉ được hiểu theo nghĩa “rộng nhất” hoặc nghĩa chung chung mà tài liệu khuyến khích, và sự phân biệt giữa hai điều này, trên thực tế, bị xóa nhòa? Liệu chúng ta có thực sự mong đợi hầu hết mọi người sử dụng cụm từ này mà có thể ngay lập tức thực hiện các điều chỉnh và phân biệt tinh tế cần thiết để “nghe” cụm từ một cách đúng đắn không? Tôi nghi ngờ điều đó.
Mối bận tâm chính của tôi là cách sử dụng từ “thừa tác vụ” có thể làm lu mờ không phải thừa tác vụ của linh mục, mà là việc thực thi chức tư tế phổ quát, tức “thừa tác vụ” của giáo dân, mà thừa tác vụ giáo dân mang tính giáo hội, được định nghĩa là sự tham gia vào thừa tác vụ của người được truyền chức, nhằm mục đích phục vụ cùng với những người có chức thánh. Cho dù ý định của tài liệu có thế nào, thì liệu việc sử dụng cụm từ “thừa tác viên giáo dân” để chỉ một tầng lớp thừa tác viên giáo dân chuyên nghiệp có khiến chúng ta quên mất cách thức mà tất cả những người đã lãnh Phép Rửa, tất cả giáo dân, đều được mời gọi để loan báo Tin Mừng, để rao giảng Phúc âm bằng lời nói và việc làm, đồng thời chịu trách nhiệm về sứ mạng của Giáo hội, mà không cần bất kỳ sự ủy quyền hoặc phê chuẩn đặc biệt nào từ hàng giáo phẩm chăng? Tất cả chúng ta đều là những môn đệ thừa sai và, như Đức Phanxicô lưu ý, “sẽ là bất cập nếu chỉ nghĩ đến một kế hoạch truyền giáo được thực hiện bởi những nhà truyền giáo chuyên nghiệp trong khi số các tín hữu khác chỉ là những người thụ hưởng thụ động” (EG, 120). Chính tài liệu Co-Workers cũng cảnh báo rõ ràng rằng cần tránh “nuôi dưỡng chủ nghĩa tinh hoa, vốn đặt các thừa tác viên giáo dân lên trên hoặc bên ngoài giáo dân”, một kiểu giáo sĩ trị của giáo dân.
Tôi tự hỏi liệu về lâu dài, hành động cân bằng này có thể được duy trì mà không khiến chúng ta quên rằng “thừa tác vụ giáo dân” và “tư cách lãnh đạo giáo dân” trong Giáo hội không phải –và không nên– là hai khái niệm trùng khớp. Cách tiếp cận này dường như giới hạn tư cách lãnh đạo của giáo dân thành một “nghề nghiệp”, vốn, đúng là, phát xuất từ Phép Rửa nhưng lại “định hình” theo thừa tác vụ nơi người có chức thánh. Tuy nhiên, như Đức Giáo Hoàng Piô XII, được trích dẫn bởi Đức Gioan Phaolô II, đã nói rõ, “các tín hữu, cụ thể hơn là giáo dân, là những người ở tuyến đầu trong đời sống của Giáo hội”.
Chính trong tinh thần này, Đức Bênêđictô cũng nói rằng Giáo hội “cần thay đổi tư duy, đặc biệt là về giáo dân. Họ không còn bị xem như những cộng sự viên của giáo sĩ nữa, mà phải thực sự được công nhận là những người ‘đồng trách nhiệm’ đối với sự hiện hữu và hoạt động của Giáo hội”. Khi thực hiện những vai trò mạnh mẽ hơn cho giáo dân trong Giáo hội, liệu chúng ta có thực sự, thông qua “thừa tác vụ giáo dân”, về lâu dài đang khiến một số giáo dân trở nên “giáo sĩ hóa” hơn thay vì mở rộng khái niệm của chúng ta về Giáo hội? Tuyến đầu của Giáo hội sẽ ở đâu nếu họ bị kéo vào một cấu trúc nội bộ vốn được lập ra để phục vụ tuyến đầu của Giáo hội, chứ không phải để thay thế nó? Khái niệm “Thừa tác vụ giáo dân mang tính giáo hội” như một mô hình cho sự tham gia của giáo dân vào sứ mạng loan báo Tin Mừng thực chất là sự trở lại mô hình trước Công đồng Vatican II, nơi chức tư tế của người đã lãnh Phép Rửa được hiểu chỉ như một chức tư tế mang tính ẩn dụ, và thực chất là sự tham dự vào chức tư tế “thực sự” duy nhất, vốn là chức tư tế của những người có chức thánh. Dù được che giấu bởi ngôn ngữ của Công đồng Vatican II, ý tưởng về “thừa tác vụ giáo dân” thực chất là sự quay trở lại, ít nhất là trên thực tế, với một quan điểm giáo hội học cũ hơn và với chủ nghĩa giáo sĩ trị mà nó đã và đang duy trì. Trong mô hình này, tư cách lãnh đạo của giáo dân luôn là sự tham gia phụ thuộc vào một vai trò lãnh đạo không thực sự thuộc về họ. Trọng tâm của Giáo hội vẫn không thay đổi.
Sự nhầm lẫn giữa hai chức tư tế này có xu hướng san bằng, gộp cả hai thành một. Những người thực thi chức tư tế Phép Rửa qua thừa tác vụ sẽ bị phụ thuộc vào thừa tác vụ mà họ cộng tác, trong khi chức tư tế thừa tác lại bị làm phẳng thành một phiên bản chỉ đơn thuần là “tăng cường” chức tư tế nơi người đã lãnh Phép Rửa, tức là chỉ khác biệt về mức độ, như thể linh mục là một giáo dân “cộng thêm”. Ví dụ, hãy xem xét những phát hiện của nghiên cứu về chức tư tế của Trường Thần học và Mục vụ thuộc Đại học Boston, “Để Phục vụ Dân Thiên Chúa” (To Serve the People of God), đặc biệt về mối tương quan giữa các linh mục và các thừa tác viên giáo dân mà họ cộng tác. Nghiên cứu đã xác định và nhấn mạnh “năm đặc điểm thiết yếu cho thừa tác vụ linh mục hiệu quả” như sau:
- khả năng rao giảng lời Chúa theo những cách thế nuôi dưỡng đức tin, đức cậy và đức mến của các môn đệ Đức Kitô;
- khả năng dẫn dắt cộng đoàn Kitô hữu trong việc cầu nguyện và thờ phượng nâng cao đời sống;
- sự sẵn sàng và khả năng trở thành người lãnh đạo cộng tác giữa các thừa tác viên giáo dân và toàn thể Dân Thiên Chúa;
- tâm thế sống một đời sống môn đệ gương mẫu trong cộng đoàn giáo hội;
- cam kết thực thi bác ái mục vụ để phục vụ Tin Mừng.
Bạn có nhận ra điều gì về danh sách này không? Với tư cách là một tín hữu không có chức thánh, tôi cũng có thể thực hiện bất kỳ điều nào trong số này. Tôi có thể rao giảng, và tôi có thể “dẫn dắt cộng đoàn Kitô hữu trong cầu nguyện và thờ phượng nâng cao đời sống” bằng nhiều cách, từ bắt đầu buổi học với một lời cầu nguyện cho đến hướng dẫn các buổi canh tân đặc sủng. Điều mà tôi không thể làm thì lại không được liệt kê ở đây, cụ thể là hành động trong tư cách Đức Kitô là đầu, và nhân danh Giáo hội (in persona Christi capitis và in nomine ecclesiae) qua việc chủ sự Thánh Thể (cùng với một số điều khác). Danh sách “Năm đặc điểm thiết yếu” lại bỏ qua điều thiết yếu nhất. Nó bỏ qua tầm nhìn của Giáo hội như một sự hiệp thông Thánh Thể tuôn trào từ sự sống của Chúa Ba Ngôi, là điều mà cả Đức Phanxicô và Đức Bênêđictô bắt đầu suy tư của các ngài. Ở đây, chúng ta đang đánh mất nền tảng của bất kỳ “sự đồng trách nhiệm đích thực nào đối với sự hiện hữu và hoạt động của Giáo hội” để thay vào đó là việc san phẳng thừa tác vụ thành điều chỉ tuôn chảy từ bí tích Rửa tội, với những người có chức thánh là một sự tham gia ở mức độ cao hơn vào thừa tác vụ đó, vốn chính là bản chất của chủ nghĩa giáo sĩ trị mà tôi đã nêu trước đó. Bởi vì nếu chỉ có sự khác biệt về mức độ, thì sẽ chỉ có sự khác biệt về địa vị trong cách hiểu “rộng nhất” hoặc chung chung về thừa tác vụ mà tài liệu Co-Workers đề xuất. Điều này không phải là sự hoàn thành, mà là sự từ bỏ Giáo hội học của Công đồng Vatican II.
Đức Gioan Phaolô II thường bày tỏ sự tiếc nuối, như Aidan Nichols đã nhận xét:
“Rằng Công đồng Vatican II sau đó đã không được minh họa qua đời sống của những vị thánh linh mục xuất chúng, những mẫu gương điển hình – giống như sau Công đồng Trentô, Thánh Vinh Sơn Phaolô. Những nhân vật mẫu mực, những cuốn sách sống động như vậy, thể hiện một cách xuất sắc tầm nhìn thần học về chức linh mục… hơn bất kỳ bản văn nào”.
Điều muốn nói ở đây không phải là kể từ Vatican II, không có linh mục nào sống thánh thiện, mà là chưa có ai thể hiện rõ ràng và sống động bản chất của giáo hội học mà Công đồng đề ra. Đây là một cách khác để nói rằng một linh mục có thừa tác vụ linh mục rõ ràng và minh bạch hướng đến việc xây dựng tư cách lãnh đạo của giáo dân trong sứ mạng và hoạt động của Giáo hội, chứ không nhất thiết hướng tới việc điều hành, tổ chức, giám sát và làm cho nó phụ thuộc vào thừa tác vụ của mình. Điều này cũng có nghĩa là nhận thức rõ vai trò của họ (x. Nichols, 154).
Một thừa tác vụ chức thánh như vậy cũng bao hàm sự bổ sung đồng trách nhiệm. Việc thực thi chức tư tế Phép Rửa không phải là hành động tự do tách rời khỏi cộng đồng giáo hội hoặc sự hiệp thông trong bí tích Thánh Thể mà chức tư tế này phụ thuộc vào thừa tác viên chức thánh. Việc này cũng không thể được thực hiện một cách độc lập với giáo huấn có thẩm quyền của những người kế vị các tông đồ. Không có việc thực thi chức tư tế phổ quát nào là đúng đắn nếu tách rời khỏi vai trò lãnh đạo của những người được truyền chức thánh. Hai hình thức lãnh đạo này có mối tương quan đồng trách nhiệm. Chúng ta có thể thấy các mô hình này nơi một số vị lãnh đạo anh hùng trước Công đồng. Chẳng hạn, Dorothy Day đã dẫn dắt một phong trào hoàn toàn mới trong việc loan báo Tin Mừng, hoàn toàn dựa trên sáng kiến cá nhân của bà. Sự hợp tác của bà với nhiều linh mục, đặc biệt là cha Pacifique Roy, là những ví dụ điển hình về sự đồng trách nhiệm trong sứ mạng và bản chất của Giáo hội, vì bà đặt trọng tâm đời sống của phong trào vào Thánh Thể và do đó, vào chức tư tế thánh, và mặc dù bà không xin phép Hồng y Spellman để hoạt động, bà cũng không bao giờ thách thức ngài trong các vấn đề liên quan đến giáo huấn và quyền mục vụ của ngài, mà thay vào đó bà nuôi dưỡng, chứ không phá vỡ, sự hiệp thông.
Một Giáo hội mà trọng tâm dường như đã thay đổi, trong đó tư cách lãnh đạo đồng trách nhiệm của những người thực thi chức tư tế của những người lãnh Phép Rửa trở thành chuẩn mực, là một Giáo hội mà dường như chúng ta vẫn chưa thực sự hình dung ra. Kể từ Công đồng Vatican II, chúng ta vẫn hoạt động với một tư duy chưa hấp thụ được những hiểu biết sâu sắc chính yếu của Công đồng về Giáo hội học, vì tôi nghĩ rằng chúng ta đã chọn cách phân tích lời kêu gọi sự tham gia của giáo dân như một lời kêu gọi gia tăng “quyền lực” của giáo dân, nhưng lại trong một cấu trúc vốn dĩ vẫn còn nguyên vẹn, một cấu trúc bị giáo sĩ trị quá mức và do đó, bị thế tục hóa một cách trớ trêu, vì thế, bị thu hẹp thành một cấu trúc quyền lực được hình thành độc lập với sự định hướng của nó hướng về “mầu nhiệm hiệp thông”. Thay vào đó, chúng ta nên sử dụng tầm nhìn của Công đồng Vatican II để “tái tập trung” Giáo hội xung quanh mầu nhiệm hiệp thông, vốn không loại bỏ hoặc làm lu mờ vai trò của phẩm trật hoặc sự lãnh đạo của họ, mà lại tìm thấy những hoa trái của sự lãnh đạo đó chính xác trong vai trò lãnh đạo của những người đã lãnh Phép Rửa. Khi họ, trong lĩnh vực thích hợp của mình và qua những dự án mà họ tự đề xuất, “loan truyền những việc làm của Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi bóng tối đến nơi đầy ánh sáng diệu kỳ của Người”, thì Giáo hội sẽ thể hiện một cách trọn vẹn hơn bản chất của mình.
Tác giả John Cavadini là Giám đốc McGrath-Cavadini của Viện Đời sống Giáo hội và là giáo sư khoa thần học tại Đại học Notre Dame. Ông được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm vào Ủy ban Thần học Quốc tế với nhiệm kỳ 5 năm vào năm 2009. Ông cũng là người đã nhận Giải thưởng Monika Hellwig vì những đóng góp xuất sắc cho đời sống trí thức Công giáo và là tác giả của cuốn Visioning Augustine.
Nt. Anna Ngọc Diệp, Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: churchlifejournal.nd.edu (26/3/2020)
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 145 (Tháng 01 & 02 năm 2025)