![niem-hy-vong-kito-giao-trong-doi-song-cua-nguoi-tin-huu](https://yeuthuongphucvu.com/wp-content/uploads/2025/02/niem-hy-vong-kito-giao-trong-doi-song-cua-nguoi-tin-huu.jpg)
![](http://huyha.net/wp-content/uploads/2025/02/niem-hy-vong-kito-giao-trong-doi-song-cua-nguoi-tin-huu.jpg)
Cuộc đời của mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Trong hành trình ân phúc đó, con người luôn ước mơ và khao khát đi tìm cho mình nhiều thứ để đạt được hạnh phúc ở trần gian này. Thế nhưng, những hạnh phúc ấy cuối cùng đều chóng qua và chìm vào dĩ vãng. Tuy nhiên, với đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo, con người vẫn có hạnh phúc thực sự, niềm hạnh phúc ấy không hệ tại ở một cái gì khác hảo huyền nhưng chính là Đức Kitô vì Người là cứu cánh, là đường là sự thật và sự sống (x. Ga 14,6). Người là cánh cửa ơn cứu độ (x. Ga10,7.9), là niềm hy vọng của chúng ta (x. 1 Tm 1,1). Chỉ khi con người gặp gỡ cách cá vị và ở thân tình với Đức Kitô, con người sẽ cảm nếm hạnh phúc viên mãn, niềm hạnh phúc đó được trãi dài trong cuộc sống khi chúng ta biết sống cho Chúa và tha nhân. Đặc biệt, khi con người tham dự tích cực vào các cử hành phụng vụ, sống hy vọng vào Chúa trong cuộc sống đời thường và hăng say trong sứ vụ loan báo Tin mừng đến cho tha nhân, con người sẽ được cảm nếm hạnh phúc Nước Trời ngay chính thực tại trần thế hôm nay.
I. NIỀM HY VỌNG TRONG PHỤNG VỤ CÔNG GIÁO
1.1 Trong các cử hành phụng vụ
Hiến chế Sacrosanctum Concilium – Phụng vụ thánh của Công đồng Vatican II số 10 viết: Phụng vụ là tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Giáo hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo hội. Khi tham dự các buổi cử hành phụng vụ nơi trần thế, chúng ta thực sự được cảm nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giêrusalem, nơi chúng ta là những lữ khách đang tiến về, ở đó Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa như một thừa tác viên của cung thánh, của nhà tạm đích thực (x. Kh 21,2; Cl 3,1; Dt 8,2); Chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh Thiên Quốc đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa: chúng ta hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các thánh khi kính nhớ các ngài; chúng ta mong Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang mai sau.
1.2 Trong các bí tích
Các bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Đức Kitô và sau cùng, thờ phượng Thiên Chúa. Khi cử hành các bí tích, Chúa Giêsu hiện diện nhờ quyền năng của Người, đến nổi, khi có ai cử hành bí tích rửa tội thì chính Chúa Kitô đang rửa tội. Người hiện diện trong lời của Người. Các bí tích là bảo chứng tình yêu mà Đức Kitô trao ban cho nhân loại, trong các bí tích, Hội thánh đã nhận được bảo chứng gia tài của mình, đã được dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Thánh Tôma Aquinô nói: Bí tích là dấu chỉ nhắc nhớ điều đã xảy ra trước nó, tức là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, là dấu chỉ cho thấy điều được thực hiện nơi chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tức là ân sủng, là dấu chỉ báo trước vinh quang tương lai. Cụ thể nhất là khi các tín hữu lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức là lúc lãnh nhận một bí tích của niềm hy vọng. Đồng thời, được gia nhập vào đoàn dân Thiên Quốc, nghĩa là Hội thánh và thông phần vào những điều thiện hảo tương lai. Nhờ các bí tích này, chúng ta đi vào chuyển động cánh chung như là chiếm hữu và hy vọng toàn thể được mạc khải nơi họ, cũng như ân huệ khởi đầu mà sách Tân ước nói đến. Trong nghi thức rửa tội chúng ta thấy diễn tả ý nghĩa của niềm hy vọng qua hai biểu tượng đó là áo trắng và nến cháy, nhắc đến một sự cam kết hướng đến đời sống vĩnh cửu. Nghi thức thêm sức cũng nói rất rõ ý nghĩa cánh chung của bí tích này; trong bản văn nghi lễ Coptic viết: dấu chỉ của Đức Kitô cho sự sống trường cửu và Chúa Thánh Thần thúc đẩy các Kitô hữu hoạt động hướng đến triều đại của Đức Kitô (LG 4 và 48). Trong các bí tích, ta thấy bí tích Thánh Thể làm nổi bật chiều kích niềm hy vọng cánh chung hơn cả.
1.3 Trong bí tích Thánh Thể
Hiến chế Sacrosanctum Concilium – Phụng vụ thánh (1963) của Công Đồng Vatican II, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Ecclesia De Eucharistia – Giáo hội từ bí tích Thánh Thể (2003). Đức Cố Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong tông huấn Sacramentum Caritatis – Bí tích tình yêu (2007) đề cập nhiều đến chiều kích niềm hy vọng của bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là bảo chứng cho vinh quang đời sau mà chúng ta đang mong đợi. Thánh Thể thu tóm tất cả những gì mà trong lịch sử cứu độ Thiên Chúa đã làm và sẽ làm cho nhân loại. Sự hiện diện của Đấng Phục sinh và của mầu nhiệm vượt qua của Người; sự trông chờ Người trở lại như là yếu tố cốt yếu của cộng đoàn cánh chung. Lời tung hô của cộng đoàn sau lời truyền phép của linh mục “chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” biểu lộ chiều hướng niềm hy vọng cánh chung của việc cử hành Thánh Thể (x. 1Cr 11,26), cũng như việc tưởng nhớ trong các kinh nguyện Thánh Thể III và IV “đồng thời mong đợi người lại đến” và sau kinh lạy Cha “đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô”, tất cả kinh nguyện tạ ơn đều kết thúc với ý tưởng vinh quang; Thánh Thể là một sự hướng về cùng một mục đích, sự nếm trước niềm vui viên mãn mà Đức Kitô đã hứa (x. Ga 15,11). Trong bí tích Thánh Thể, mọi sự đều diễn ra sự mong đợi đầy tin tưởng đó. Những ai rước mình và máu Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể không cần chờ đến đời sau mới đón nhận sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này, như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn liên quan đến toàn thể con người. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 6,54). Sự bảo đảm này bắt nguồn từ sự kiện thân xác Con Người được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển sau khi sống lại. Với bí tích Thánh Thể, chúng ta như thể biết được bí mật của sự sống lại. Vì thế, thánh Inhaxiô thành Antiôkia đã định nghĩa cách tuyệt vời: Thánh Thể như là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết.
Bí tích Thánh Thể còn gợi lên, diễn tả và củng cố sự hiệp thông giữa chúng ta với Hội thánh trên trời. Đây là một khía cạnh của Thánh Thể đáng được nhấn mạnh. Khi cử hành hy tế của Con Chiên, chúng ta được liên kết với phụng vụ trên trời và trở nên thành phần của một đoàn đông đảo (x. Kh 7,10). Quả thực, bí tích Thánh Thể là một thoáng hiện của Thiên đàng trên trái đất và là một tia sáng huy hoàng của Giêrusalem Thiên Quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch sử và sự soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. Bí tích Thánh Thể luôn thúc đẩy chúng ta tiến bước trong lịch sử và làm nảy sinh hạt giống của niềm hy vọng sống động trong những dấn thân hằng ngày để chu toàn nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với thế giới hôm nay. Như thế, việc loan truyền sự chết của Chúa cho đến khi Người lại đến đòi hỏi người Kitô hữu phải dấn thân, nhiệt huyết, biến đổi cuộc sống của mình và làm cho nó cách nào đó hoàn toàn trở thành Thánh Thể. Tựu trung, chiều kích niềm hy vọng cánh chung luôn gắn liền với bí tích Thánh Thể: Thánh Thể là bí tích của Chúa Giêsu phục sinh; là lương thực cho Hội thánh lữ hành, là thuốc trường sinh cho con người, giúp Kitô hữu thông phần bản tính Thiên Chúa, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, đồng thời loan báo trời mới đất mới. Chính vì thế, người tín hữu cần tham dự phụng vụ nhất là bí tích thánh thể cách sốt sắng, linh động với một tâm hồn trong sáng, ngay thẳng, đừng để lãnh nhận ơn Chúa cách vô ích.
1.4 Trong năm phụng vụ
Trong năm phụng vụ, chiều kích niềm hy vọng được nêu bật cách đặc biệt trong mùa vọng và phục sinh. Tuy nhiên, gốc rễ của sự chờ đợi cuộc quang lâm là lễ phục sinh. Trong đêm canh thức phục sinh, chúng ta trông mong Chúa Cứu Thế đến. Cụ thể qua các lời nguyện, chiều kích niềm hy vọng cánh chung nổi lên rõ rệt, trong đó khởi đi từ cuộc phục sinh của Đức Kitô và Chúa Thánh Thần được ban cho nhân loại như ân hồng ân của thời viên mãn để thực hiện canh tân vũ trụ, phụng vụ xin cho Hội thánh đạt tới sự viên mãn và hoàn tất. Ngoài ra, chiều kích niềm hy vọng còn được đề cao trong các Thánh lễ: Kính Chúa (Chúa Thăng Thiên, Đức Kitô Vua Vũ Trụ), lễ trọng kính tất cả các thánh và lễ kính các linh hồn đã qua đời. Đặc biệt, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, người là khởi đầu, là hình ảnh niềm hy vọng cánh chung và là niềm an ủi, hoa trái đầu mùa của thực tại tương lai mà Hội thánh đang trông mong hy vọng trong cuộc lữ hành trần thế. (x. Kinh tiền tụng lễ chính ngày).
1.5 Trong phụng vụ các giờ kinh
Chúa Kitô tiếp tục thực thi phận vụ tư tế qua chính Hội thánh của Người. Do đó, Hội thánh là cộng đoàn không ngừng chúc tụng Thiên Chúa và chuyển cầu cho phần rỗi thế giới. Đồng thời, Hội thánh còn tụ họp để cầu nguyện, tuyên xưng sự hiệp thông với Giêrusalem Thiên Quốc nhờ việc chúc tụng được dâng lên trong các giờ kinh nhật tụng. Qua việc dâng lên các lời kinh, Hội thánh ca hát và kết hợp với lời chúc tụng bất tận trên Thiên Quốc, và nếm hưởng sự chúc tụng được vang lên trước ngai Thiên Chúa và Con Chiên như sách khải huyền mô tả. Trong phụng vụ các giờ kinh, chúng ta biểu lộ và nuôi dưỡng niềm hy vọng ấy, chúng ta tham dự cách nào đó vào niềm vui của lời chúc tụng trưởng cửu và vào ngày không xế tàn. Trong các lời nguyện kinh chiều, chúng ta cầu xin và khẩn nài cho ánh sáng luôn trở về với chúng ta, và chúng ta xin Đức Kitô đến và ban cho chúng ta hồng ân ánh sáng vĩnh cửu. Trong giờ kinh tối, qua việc phó thác bản thân cho Chúa, trong khi nghỉ ngơi và sau khi tuyên xưng với ông Simêon lòng ước ao được gặp, được thấy, được ở với Người. Như vậy, niềm hy vọng Kitô giáo được bộc lộ rõ nét nơi vài lời nguyện, đặc biệt các lời nguyện kinh chiều mùa thường niên.
II. NIỀM HY VỌNGTRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY
2.1 Sống chiều kích hy vọng qua việc cầu nguyện
Chúa Giêsu khi sống ở trần gian, bằng cung cách rao giảng và việc làm của Ngài, điều này chứng tỏ triều đại Thiên Chúa đã đến rồi, đặc biệt Người đã đập tan sự chết để chúng ta được tham dự vào cái chết và phục sinh của Người. Tuy nhiên, chúng ta chỉ mới lãnh nhận bảo chứng của ơn cứu chuộc, đặc biệt là Thánh Thần. Chúng ta còn mang những vết tích của tội lỗi và sự chết, nên chúng ta trông mong được giải thoát hoàn toàn khỏi cảnh nô lệ đó (x. Rm 8,19-22). Như thế, thực tại cánh chung đã đến rồi, đã hoàn thành nhưng chưa kết thúc, vẫn còn giang dỡ để mở ra cho tất cả mọi người đón nhận với sự tự do của mình. Nước trời đang hiện trong Hội thánh nhưng chưa phải là tuyệt đối với quyền năng và vinh quang (x. Lc 21,7). Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công, mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc vượt qua của Đức Kitô. Vì vậy, các Kitô hữu cần phải cầu nguyện như lời Đức Bênêđictô nói trong thông điệp về niềm hy vọng Kitô giáo: cầu nguyện được xem là trường của niềm hy vọng, để Đức Kitô mau lại đến (x. 2Pr 3,11-12). Hơn nữa, chúng ta cần làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự và mặc lấy binh giáp của Người để có thể đối phó và đứng trước những cạm bẫy của ma quỷ trong ngày đen tối (x. Ep 6,11-13). Thời gian hiện tại, theo Chúa là thời gian của ân sủng, thần khí và việc làm chứng, nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằn nổi khó khăn hiện tại và bằng sự thử thách của sự dữ, thời gian này không buông tha Hội thánh và khởi đầu cuộc chiến của những ngày sau cùng. Do đó, chúng ta phải sống trong tâm thế chờ đợi và tỉnh thức như lời Chúa nhắc nhở, để khi sự sống duy nhất của mỗi người ở trần gian này chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được kể vào số những người được chúc phúc (x. Mt 25,31-46).
2.2 Sống dấn thân và hy vọng vào Đức Kitô
Niềm hy vọng mang tính cách năng động nhờ được đặt trong mối tương quan cá vị với Đức Kitô. Qua việc dấn thân, chúng ta làm cho thế giới này năng động và nhân bản hơn để mở rộng cánh cửa đi vào tương lai. Cũng như sống dấn thân, đau khổ luôn đi liền với tính hiện sinh của con người. Nếu loại bỏ đau khổ, con người sẽ rơi vào một đời sống trống rỗng, mơ hồ và hụt hẩng. Thế nên, trong đau khổ con người tìm được ý nghĩa của nó nhờ kết hợp với cuộc thương khó của Đức Kitô. Bên cạnh đó, người Kitô hữu cần sống đức tin và hy vọng vào Đức Kitô, Đấng là đường là sự thật và sự sống (x. Ga 14,6). Người là dung mạo đích thực và niềm hy vọng của chúng ta, chỉ có Người giải thoát và cứu độ chúng ta bằng tình yêu. Người là niềm hy vọng đích thực và vĩ đại, Người yêu thương chúng ta cho đến tận cùng, cho đến lúc viên mãn (x. Ga 13,1; 19,30). Ai đã được tình yêu này đụng chạm tới, thì sẽ bắt đầu cảm nghiệm cuộc sống đích thực là gì. Chúng ta bắt đầu cảm nghiệm lời nói về hy vọng mang ý nghĩa gì, lời mà chúng ta gặp trong nghi thức rửa tội: nhờ đức tin tôi mong chờ sự sống đời đời, sự sống đích thực, trọn vẹn và không bị hăm dọa, sự sống trong sự tròn đầy của nó. Đức tin đã mang lại cho cuộc sống một nền tảng mới mẻ, hầu trên đó con người xây dựng tương lai của mình không theo cách thế mà thế giới này coi là bảo đảm đang khi nó chỉ là thứ yếu. Niềm hy vọng Kitô giáo phải được xây dựng trên đức tin, nhờ vậy niềm hy vọng tìm thấy cho nó một sức bật bên trong chứ không phải là một thứ hy vọng bâng quơ bên ngoài. Chỉ với cái nhìn của niềm hy vọng trong đức tin, niềm hy vọng ấy mới tìm thấy cho nó trọn vẹn nội dung và một hướng đích. Tóm lại, niềm hy vọng Kitô giáo là hy vọng tương lai đang tới của Đức Kitô, tương lai ấy đã được mở ra cho chúng ta thấy trong biến cố phục sinh. Tương lai ấy vẫn còn tiếp tục được thành toàn vì nó vẫn còn đang được mong đợi, vẫn còn đang được chờ đợi trong hy vọng Trời Mới Đất Mới.
2.3 Hy vọng vào một cuộc sống hạnh phúc
Con người thời xưa và nay luôn đặt ra câu hỏi mang tính hiện sinh: tôi sống ở đời này để làm gì? Thiết nghĩ, câu trả lời nhiều người chọn nhất là: được sống hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ở đây là hạnh phúc nào? Hạnh phúc có hệ tại ở chỗ thỏa mãn nhu cầu vật chất hay một điều gì khác? Đối với chúng ta, câu trả lời cuối cùng là cuộc sống hạnh phúc chỉ có thể đời sống mai hậu. Chúng ta hy vọng không khác gì hơn là được sở hữu điều này. Chúng ta đang trên đường lữ hành của niềm hy vọng không vì một điều gì khác hơn là điều duy nhất đó. Tuy nhiên, ngay khi ở đời này, chúng ta có thể nếm hưởng phần nào nhờ con đường Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã dạy. Bài giảng Bát Phúc thanh luyện chúng ta khỏi những ảo tưởng về hạnh phúc giả tạo và vạch ra cho chúng ta thấy con đường dẫn tới hạnh phúc chân chính. Tám Mối Phúc họa lại cho chúng ta chính bức chân dung của Đức Giêsu và mời gọi chúng ta chia sẻ con đường yêu thương qua việc từ bỏ mình để phục vụ tha nhân. Như vậy, niềm hy vọng vào cuộc sống hạnh phúc tuyệt đối mở ra cho chúng ta một cái nhìn về giá trị và ý nghĩa của cuộc đời, kể cả những khi gặp bế tắc, khó khăn trong cuộc sống. Niềm hy vọng này mang lại nghị lực cho chúng ta trong việc kiến tạo và xây dựng thế giới này, chuẩn bị cho công lý và hòa bình ngự trị, những nổ lực xây dựng thế giới sẽ không bị hủy diệt, nhưng được nâng cao trong Vương Quốc của Thiên Chúa.
2.4 Hy vọng Đức Kitô trở lại phán xét
Trong kinh Tin Kính vĩ đại của Công đồng chung Nicêa (325) và Constantinốp (381) có đoạn viết: “Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Như thế, ngay từ thời gian đầu, viễn ảnh cuộc phán xét đã ảnh hưởng trên người Kitô hữu ngay trong đời sống hằng ngày, như tiêu chuẩn để sắp xếp cuộc sống hiện tại, đồng thời cũng là hy vọng vào sự công chính của Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô không bao giờ chỉ nhìn lui, nhìn trên nhưng luôn nhìn ra phía trước, nhìn vào giờ công chính mà Chúa loan báo rất nhiều lần. Cái nhìn về phía trước đem lại cho đời sống đức tin Kitô giáo sức mạnh cuộc sống hiện tại. Vì thế, niềm tin vào cuộc phán xét chung thẩm được xem như môi trường học hỏi và thực tập của niềm hy vọng, và hình ảnh cuộc phán xét cuối cùng trước tiên không phải là hình ảnh kinh sợ, nhưng là hình ảnh hy vọng, có lẽ đối với chúng ta là hình ảnh hy vọng dứt khoát. Khi hướng về cuộc phán xét và quang lâm, chúng ta cảm nghiệm và lãnh nhận sự thống trị tình yêu của Người trên mọi sự xấu xa trong trần gian và trong con người, tâm hồn chúng ta. Dù vậy, ân sủng của Chúa giúp chúng ta can đảm, hy vọng và vững tin tiến đến gặp gỡ vị thẩm phán mà chúng ta biết Người là Đấng luôn là trạng sư của chúng ta (x. 1 Ga 2,1).
2.5 Hy vọng vào Vương quốc Thiên Chúa và được lên thiên đàng
Niềm tin vào Vương Quốc Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta luôn sống trong hy vọng. Trong lời kinh Chúa dạy – Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Thật vậy, bằng lời cầu nguyện của mình, người Kitô hữu luôn hy vọng cho triều đại Thiên Chúa luôn ngự đến. Chúng ta mong đợi trời mới đất mới nhưng cũng dấn thân xây dựng thế giới hiện tại và luôn cộng tác cho Triều Đại Thiên Chúa qua cuộc sống sao cho tương hợp với lời giảng dạy của Đức Kitô. Các tín hữu thi hành bổn phận và trách nhiệm của mình với lòng tận tụy yêu mến để xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa ngay chính trần gian này, nhằm giúp con người thoát khỏi tất cả mọi sự dữ. Tuy vậy, chúng ta đang sống trong Giáo Hội mới chỉ là mầm mống và khai nguyên của Vương Quốc Thiên Chúa ở trần gian. Vương quốc ấy chỉ hoàn tất trong ngày tận thế, ngày Chúa đến lần thứ hai. Người sẽ thiết lập vĩnh viễn của Vương Triều Thiên Chúa, nơi đó không còn sự chết, tang tóc kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất (x. Kh 21, 1.4), nhưng là nơi của sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần; Vương Quốc Thiên Chúa là hồng ân, vĩ đại và tốt đẹp là câu trả lời cho niềm hy vọng Kitô giáo; Vương Quốc của Người không phải là thế giới bên kia thật ảo tưởng thuộc về một tương lai không bao giờ đến; Vương Quốc của Người hiện diện, nơi Người được yêu mến và nơi tình yêu của Người đến với chúng ta. Chỉ có Vương Quốc Thiên Chúa mới đem lại cho chúng ta sự kiên vững trong một thế giới tự bản chất là bất toàn, luôn thay đổi nhanh chóng mà không đánh mất sức bật của niềm hy vọng vào Chúa và vương quốc của Người.
Trong kinh “trông cậy” và phần kết của Kinh Tin Kính, chúng ta hy vọng vào ngày sau hết được Thiên Chúa cho lên thiên đàng, được hưởng hạnh phúc đời đời. Quả thật, thiên đàng và cuộc sống đời đời là mục đích tối hậu và niềm hy vọng của các Kitô hữu mà các tín hữu cần hướng về. Để có sự sống đời đời, chúng ta cần phải dấn mình vào một niềm tín thác thực sự, nói như Đức Bênêđictô XVI nói: đó là niềm tin vào Thiên Chúa, chỉ có đức tin là chìa khóa đem lại cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng thời, sự sống đời đời dành cho những ai khước từ mọi sự (x. Mc 10,29-30), lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Nơi đó, chúng ta được ở với Đức Kitô và nhìn thấy Ngài, bởi vì nơi đâu có Đức Kitô, ở đó có Nước Trời. Nhưng, chúng ta có thể nói gì về đời sống vĩnh cửu? Đó vẫn còn là một ẩn giấu đối với chúng ta, vẫn còn là điều chưa biết, vẫn được giữ lại trong niềm hy vọng về một thực tại mới mẻ.
III. NIỀM HY VỌNG TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
3.1 Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi loan báo niềm hy vọng Kitô giáo
Tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu và tuân theo mệnh lệnh của Người: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Giáo Hội vẫn, đang và sẽ tiếp tục loan báo Tin mừng cho mọi người biết Chúa Kitô; đồng thời, biểu lộ sự hiển linh ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần gian và trong lịch sử nhân loại. Qua việc cử hành các bí tích mà tột đỉnh là bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo tỏ bày sự hiện diện của Đấng tác thành công trình cứu rỗi là Chúa Kitô. Tất cả những gì đã được gieo vãi trong tâm hồn con người, trong những nghi lễ và văn hóa đặc thù của các dân tộc, sẽ không bị hủy bỏ, nhưng được chữa lành, thăng tiến và hoàn thiện để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải nhục nhã và con người được hạnh phúc. Như thế, hoạt động truyền giáo hướng tới sự viên mãn niềm hy vọng trời mới đất mới: đưa đoàn dân Chúa phát triển vươn tới mức và thời hạn do Chúa Cha toàn quyền đặt định và cũng nhờ đó, thân thể nhiệm mầu được tăng trưởng đạt đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô.
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi. Cộng đoàn này nhận lãnh sứ mệnh đi vào thế giới và ra công làm việc, hướng đến một sự biến đổi sẽ đến. Chính vì việc sai đi này mà niềm hy vọng không bỏ mất hiện tại nhưng là công việc của hiện tại. Thế nên, có thể nói, sai đi cũng là một trong những đặc tính của niềm hy vọng. Hội thánh đi vào thế giới là để cho thế giới này thay đổi và trở nên điều đã được hứa cho nhân loại “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,16). Vì vậy, Hội thánh sống vì, sống với và sống cho thế giới không gì khác hơn là một Hội thánh vì và cho triều đại Nước Thiên Chúa, đồng thời không ngừng dẫn đưa thế giới này đi vào chân trời của niềm hy vọng.
Loan báo Tin mừng không khác gì hơn là loan báo và làm cho con người ngày hôm nay hy vọng vào Đấng Tuyệt Đối. Thánh Phêrô khi rao giảng, ngài luôn xác quyết điều này khi ngài nói anh em hãy trả lời về bất cứ lý do mà mình hy vọng (x. 1Pr 2,13) cho những người muốn đi vào cuộc sống thân tình với Đức Kitô. Quả thực, thế giới này đang đạt được nhiều tiến bộ nhưng vẫn là một thế giới bất toàn, mỏng giòn và tạm bợ. Bởi thế nhân loại cần một tình yêu vô điều kiện, tình yêu này chỉ có thể gặp thấy nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Phục sinh, Người là chính sự sống và là tình yêu (x. 1Ga 4,8). Giáo Hội không trao tặng cho nhân loại một thứ hy vọng ngắn ngủi nhưng là niềm hy vọng của một đời sống vĩnh cửu vừa hiển hiện trong hiện tại nhưng cũng là vừa trong tương lai đang đến. Chỉ có sự xác tín của niềm hy vọng mới có thể đem lại cho con người sự cam đảm để hoạt động và tiếp tục tiến lên phía trước.
3.2 Đào tạo đức tin cho người Kitô hữu và loan báo Tin mừng vì phần rỗi các linh hồn
Sứ vụ loan báo Tin mừng không chỉ là mang Chúa đến cho những người chưa nhận biết Chúa, nhưng còn cần phải đào tạo và đào sâu đức tin cho người Kitô hữu. Việc đào tạo và đào sâu đức tin cần giúp cho người tín hữu đi vào cuộc sống cá vị và thân tình với Đức Kitô, sống gắn bó và xác tín vào Người. Đồng thời, chúng ta cần giúp người kitô hữu cảm nghiệm, sống và đem đức tin vào chính cuộc sống hiện tại nơi mình đang sống và làm chứng. Nhờ đời sống đức tin gương mẫu của mình, các Kitô hữu phần nào làm chứng và loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa giữa các thực tại trần thế. Nhờ có một đức tin sâu sắc, các Kitô hữu luôn sống trong hy vọng và cảm nhận được hạnh phúc Thiên Quốc trên trần gian này. Đức tin là nhân đức thần linh rất quan trọng để biến đổi thế giới: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em. (Lc 17 1, 6). Sứ vụ loan báo Tin mừng sẽ không mang lại hiệu quả nếu không dẫn đưa các linh hồn trở về với Chúa. Chúa Giêsu đến trần gian không khác gì hơn là vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta. Ngài đến để quy tụ con cái của Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. Chỉ có Đức Kitô mới mang lại ơn cứu rỗi cho con người vì “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ (x. Cv 4, 12). Biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người, vì mỗi một người đều được bao gồm trong mầu nhiệm cứu chuộc, và Chúa Kitô đã vĩnh viễn hiệp nhất chính mình với từng người nơi mầu nhiệm cao cả này.
3.3 Loan báo mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh cho con người hôm nay
Đời sống của người Kitô hữu luôn được mời gọi quy hướng về một thực tại duy nhất là Đức Kitô. Do đó, chúng ta có nhiệm vụ sống, tuyên xưng và loan báo mầu nhiệm Đức Kitô chết, sống lại cho người khác như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết trong Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế: phận sự trọng yếu của Giáo Hội trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại chúng ta hôm nay là hướng cái nhìn của con người, là hướng dẫn việc nhận thức và cảm nghiệm của toàn thể nhân loại quy về mầu nhiệm Chúa Kitô. Rao giảng mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là trọng tâm lời rao giảng của các Tông đồ nhưng còn phải là mục đích của các Kitô hữu vì Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng vật của ân sủng và của tình thương Thiên Chúa (x. Ep 2, 8). Như vậy, qua việc loan báo Chúa Kitô chịu chết và phục sinh, nhờ Người và trong Người, con người hoàn toàn và thực sự được giải thoát khỏi sự dữ, tội lỗi và sự chết, và nhờ Người, Thiên Chúa ban sự sống mới là sự sống thần linh và trường cửu cho tất cả những ai tin và sống hy vọng vào Người.
3.4 Bậc Đáng kính Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận – Chứng nhân của niềm hy vọng
Đức Thánh Cha Phanxicô trong sắc chỉ công bố năm thánh 2025 với chủ đề những người lữ hành của niềm hy vọng. Ngài nói: Đã là những người của niềm hy vọng thì chúng ta phải làm gì đó, nghĩa là chúng ta phải hành động, như những người Do Thái đã thưa với Thánh Gioan Tẩy Giả? Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì? Đây là một câu hỏi rất hiện sinh luôn gắn liền với thực tại cuộc sống. Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã sống niềm hy vọng cách sống động trong cuộc đời ngài, đặc biệt trong khoảng 13 năm ở tù, trong đó có 9 năm biệt giam. Niềm vui và hy vọng là chính biểu tượng giám mục của ngài. Ngài đã viết rất nhiều sách tu đức và nhiều tác phẩm của ngài được dịch ra nhiều thứ tiếng. Con đường sống tu đức, kinh nghiệm sống của ngài còn được đúc kết trong nhiều tác phẩm để nói lên sự xác tín mạnh mẽ về niềm hy vọng của mình: Đường hy vọng dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, đường hy vọng, chứng nhân hy vọng, những người lữ hành trên đường hy vọng, hy vọng không chán nản, cầu nguyện hy vọng, năm chiếc bánh và hai con cá, niềm vui sống đạo. Nếu ai đã đọc qua những tác phẩm xuất phát từ cảm nghiệm cuộc sống, sẽ thấy ngài là một nhà thần học có tầm nhìn sâu rộng, trong một giai đoạn khó khăn đen tối vô tận, trong những đêm ngập tràn thinh lặng và cô đơn. Nhưng chính nơi đây, Thiên Chúa đã ban cho ngài những giờ phút tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời. Niềm hy vọng của ngài là một đời sống cầu nguyện liên lỉ và dâng Thánh lễ sốt sắng mỗi ngày. Trong tù ngài đã cải trang để cử hành Thánh Lễ, truyền phép trong một bàn tay với vài “giọt thuốc chữa bệnh dạ dày” và bánh thánh giấu trong một lọ chống ẩm. Ngay trong cách thức này, Đức Hồng y cũng sống và kinh nghiệm điều Công đồng Vatican II dạy trong Hiến chế Gaudium et Spes: Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng cậy trông và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời. Có thể nói: Ngài xứng đáng là bậc thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Cái hay của Đức Hồng y đó là ngài cảm nghiệm rằng: Không phải trường học nhưng chính cuộc sống đào tạo chúng ta. Chính đời sống chứng nhân của ngài, nên được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma năm 2000 mà từ trước đến nay chưa có một người Việt Nam nào có được vinh dự cao quý như thế. Đức Hồng y là mãi là một kiệt tác, một chứng nhân hy vọng của thời đại. Đức Bênêđictô XVI đã ca ngợi ngài trong Thông điệp Spe Salvi – về niềm hy vọng Kitô giáo như sau: Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quý giá: Những lời cầu nguyện của niềm hy vọng. Trong vòng 13 năm tù đày, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu. Chính con người cầu nguyện của Đức Hồng y Thuận, niềm hy vọng của ngài và đức tin sống động của ngài được đề cao. Nơi đây Bậc Đáng Kính của Thiên Chúa được nói đến như một người thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate – Về lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay đã giới thiệu Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận như bậc thầy của niềm hy vọng. Ngài đã chọn sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu. Ngài nói: Tôi sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc thường ngày của tôi một cách phi thường. Trong sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục ca ngợi Đức Hồng y là nhà truyền giáo của hy vọng bởi chính đời sống cầu nguyện bền bỉ. Như thế, niềm hy vọng chính là một lời đáp trả cho hành trình ơn gọi và nên thánh của ngài. Đức Hồng y mãi tấm gương sáng ngời về sống niềm hy vọng cho các Kitô hữu noi theo.
Tác giả: Lm. Phêrô Trần Đình Lương, Giáo phận Bà Rịa
Nguồn: giaophanxuanloc.net