Đức Thánh Cha và ông Emmanuel Van Lierde, trong cuộc tiếp kiến dành cho ban biên tập tuần báo “Tertio” vào năm 2020 (Photo: Vatican Media)
Trong cuộc phỏng vấn của hai tuần báo Kitô giáo “Tertio” và “Dimanche” của Bỉ , ngoài chủ đề cuộc chiến ở Ucraina, điều Đức Thánh Cha hết sức quan tâm, điều ngài xem như một thất bại cá nhân khi không thể ngăn đổ máu thêm nữa và những lời kêu gọi đối thoại không ngừng, ngài đặc biệt nói đến ý muốn canh tân Giáo hội ngay từ khi bắt đầu lãnh đạo Giáo hội, đến Công đồng Vatican II và Thượng Hội đồng về hiệp hành đang diễn ra trong Giáo hội.
Ngày 28/2/2023, hai tuần báo Kitô giáo “Tertio” và “Dimanche” của Bỉ đã đăng nội dung một cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha, được thực hiện ngày 19/12 năm ngoái (2022), hai ngày sau khi Đức Thánh Cha tròn 86 tuổi. Cuộc phỏng vấn kéo dài 45 phút, dài hơn chương trình dự tính 15 phút, được thực hiện nhằm kỷ niệm 10 năm Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu chọn làm Giáo hoàng – ngày 13/3/2023.
Khi được biết cuộc phỏng vấn sẽ được đăng nhân dịp kỷ niệm 10 năm kế vị Thánh Phêrô, nghĩa là hơn 3 tháng sau ngày phỏng vấn, Đức Thánh Cha lo lắng hỏi người phỏng vấn: “Nếu có điều gì xảy ra với tôi trong thời gian chờ đợi thì sao?”. Nhưng với tính hài hước, ngài nói thêm rằng một xuất bản sau khi ngài qua đời sẽ cho phép ngài nói lời cuối cùng “từ ngôi mộ”. Và cuộc phỏng vấn đã diễn ra trong bầu khí vui vẻ, không có nghi thức hoặc thủ tục.
Trong cuộc phỏng vấn, ngoài chủ đề cuộc chiến ở Ucraina, điều Đức Thánh Cha hết sức quan tâm, điều ngài xem như một thất bại cá nhân khi không thể ngăn đổ máu thêm nữa và những lời kêu gọi đối thoại không ngừng, ngài đặc biệt nói đến ý muốn canh tân Giáo hội ngay từ khi bắt đầu lãnh đạo Giáo hội, đến Công đồng Vatican II và Thượng Hội đồng về hiệp hành đang diễn ra trong Giáo hội. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha không quên nhấn mạnh rằng phụng tự và phục vụ phải đi đôi với nhau. Ngài nói: “Một Giáo hội thuần túy phụng tự thì không phải là một Giáo hội; cũng thế, một Giáo hội thuần túy ‘xã hội’ thì không phải là một Giáo hội.”
Sau đây là một phần nội dung của cuộc phỏng vấn.
Thưa Đức Thánh Cha, tên ngài chọn khi làm Giáo hoàng cũng bao gồm một chương trình nghị sự. Theo gương Thánh Phanxicô Assisi, ngài muốn xây dựng lại và đổi mới Giáo hội, ngài quan tâm đến người nghèo và trái đất, ngài hoạt động vì hòa bình và coi trọng đối thoại liên tôn. Một sợi chỉ đỏ khác để hiểu triều đại giáo hoàng của ngài chính là Công đồng Vatican II (1962-1965), ngay cả khi ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên không tham dự Công đồng. Tại sao việc tiếp tục thực hiện Công đồng đó lại quan trọng đối với ngài như vậy?
– Các nhà sử học nói rằng phải mất một thế kỷ để các quyết định của một Công đồng có hiệu lực đầy đủ và được thực hiện. Chúng ta vẫn còn 40 năm nữa…. Tôi rất quan tâm đến công đồng vì sự kiện đó thực sự là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đối với Giáo hội của Người. Công đồng là một trong những điều mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử thông qua những người thánh thiện. Có lẽ, khi Đức Gioan XXIII thông báo, không ai nhận ra điều gì sắp xảy ra. Người ta nói rằng chính ngài nghĩ rằng nó sẽ hoàn thành trong một tháng, nhưng một Hồng y đã nói: “Ngài hãy bắt đầu mua đồ đạc và mọi thứ khác, chúng ta sẽ cần nhiều năm.” Đức Gioan XXIII đã tính đến điều này, ngài là một người cởi mở với những lời mời gọi của Chúa. Đây là cách Thiên Chúa nói với dân Người. Và ở đó Người thực sự đã nói với chúng ta. Công đồng không chỉ liên quan đến việc canh tân Giáo hội. Đó không chỉ là vấn đề canh tân, mà còn là một thách đố để làm cho Giáo hội ngày càng sống động hơn. Công đồng không đổi mới, nhưng làm trẻ hóa Giáo hội. Giáo Hội là người mẹ luôn tiến bước. Công đồng đã mở ra cánh cửa cho sự trưởng thành hơn, hòa hợp hơn với những dấu chỉ của thời đại. Chẳng hạn như Lumen gentium, hiến chế tín lý về Giáo hội, là một trong những văn kiện truyền thống nhất và đồng thời cũng là văn kiện hiện đại nhất, bởi vì trong cơ cấu của Giáo hội, truyền thống – nếu được hiểu đúng – luôn luôn hiện đại. Điều này là do truyền thống tiếp tục phát triển và lớn mạnh.
Như đan sĩ người Pháp Vincent de Lérins, sống vào thế kỷ thứ 5, đã tuyên bố: các tín điều phải tiếp tục phát triển, nhưng theo phương pháp luận này: “Những điều có thể được củng cố theo năm tháng, được mở rộng theo thời gian, được tôn vinh bởi tuổi tác”. Điều đó có nghĩa là: bắt đầu từ gốc rễ, chúng ta luôn tiếp tục phát triển. Công đồng đã tiến một bước như thế, mà không chặt bỏ gốc rễ, bởi vì muốn sinh hoa trái thì không thể làm như vậy. Công đồng là tiếng nói của Giáo hội cho thời đại của chúng ta và trong thời điểm này – trong một thế kỷ – chúng ta đưa nó vào thực tế.
Thưa Đức Thánh Cha, việc tiếp tục thực hiện và thực hiện công đồng bao gồm việc khuyến khích tính hiệp hành. Ngài mong đợi điều gì và thấy trước điều gì trong tiến trình hiệp hành này? Nó thực sự có ý nghĩa gì? Đó có phải là một phong cách điều hành và lãnh đạo bắt nguồn từ những ý tưởng của Công đồng không?
– Có một điểm mà chúng ta không được bỏ qua. Vào cuối công đồng, Đức Phaolô VI đã được đánh động khi lưu ý rằng Giáo hội phương Tây gần như đã đánh mất chiều kích hiệp hành của nó, trong khi các Giáo hội Công giáo ở phương Đông đã có thể bảo tồn nó. Do đó, ngài đã công bố việc thành lập Uỷ ban Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục, để một lần nữa thúc đẩy tính hiệp hành trong Giáo hội. Trong sáu mươi năm qua, điều này ngày càng phát triển. Dần dần một số điều đã được làm rõ. Ví dụ, có phải chỉ có các giám mục có quyền bỏ phiếu. Đôi khi không rõ liệu phụ nữ có thể bỏ phiếu hay không… Trong Thượng Hội đồng lần trước về miền Amazon, vào tháng 10 năm 2019, đã có một sự trưởng thành theo nghĩa này. Vì vậy, có một điều gì đó đặc biệt đã xảy ra. Khi một Thượng Hội đồng kết thúc, những người đã tham gia và tất cả các Giám mục trên thế giới được hỏi đâu là chủ đề họ muốn trong chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng tiếp theo. Chủ đề đầu tiên được chỉ ra là chức tư tế, sau đó là tính hiệp hành. Rõ ràng đó là một chủ đề chung mà tất cả các Giám mục đều cảm thấy đã đến lúc phải giải quyết. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập cơ quan thường trực này của các Thượng Hội đồng Giám mục, một số nhà thần học đã lập một bảng cân đối kế toán trong một tài liệu. Chúng ta đến từ xa, bây giờ chúng ta đang ở đây và chúng ta phải tiến về phía trước. Đây là những gì chúng ta làm thông qua tiến trình hiệp hành hiện tại, và hai Thượng Hội đồng về tính hiệp hành sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ ý nghĩa và phương pháp của tiến trình đưa ra quyết định trong Giáo hội.
Điều quan trọng là phải nói rõ rằng một Thượng Hội đồng không phải là một quốc hội. Một Thượng Hội đồng không phải là một cuộc thăm dò ý kiếncủa cánh tả và cánh hữu. Không. Nhân vật chính của một Thượng Hội đồng là Chúa Thánh Thần. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì không thể có công nghị. Thượng hội đồng là một kinh nghiệm của Giáo hội mà vị chủ tịch và tác nhân chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần hoạt động theo hai cách. Trước hết, Người làm cho Thượng Hội đồng trở thành một loại công trường xây dựng. Hãy nghĩ về buổi sáng ngày Lễ Ngũ Tuần: thật đúng là một công trường xây dựng! Với những đặc sủng dồi dào của Người, dường như Người tạo ra sự rối loạn và hỗn loạn. Nhưng rồi… Người tạo ra trật tự. Hay đúng hơn, Người tạo ra sự hài hòa, một loại trật tự cao hơn. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Basiliô thành Xêdarê viết trong chuyên luận về Chúa Thánh Thần, khi ngài cố gắng định nghĩa về Chúa Thánh Thần: “Đấng là sự hài hòa”. Và chính điều này đã được trải nghiệm trong một Thượng Hội đồng.
Một điều thú vị khác: trong một Thượng Hội đồng chúng ta nói rất nhiều. Mỗi người tham gia sẽ có một bài phát biểu dài bốn phút khi đến lượt mình. Sau ba bài phát biểu, luôn luôn có bốn phút thinh lặng, một thời gian để cầu nguyện, để Chúa Thánh Thần có thể giúp đỡ chúng ta. Xem một Thượng Hội đồng như một quốc hội là một sai lầm. Thượng Hội đồng là một tập hợp của các tín hữu, đó là một cộng đoàn đức tin được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, nhưng cũng bị ma quỷ cám dỗ và dụ dỗ.
Thưa Đức Thánh Cha, với thời gian, tại các quốc gia của chúng ta, từ một Giáo hội của đa số, Giáo hội trở thành một Giáo hội được chọn – với số lượng giáo sĩ giảm dần và ít tín hữu hơn – những vị lãnh đạo Giáo hội có xu hướng tập trung vào những gì họ coi là “công việc cốt lõi” của mình: phụng vụ và loan báo Tin Mừng. Nhưng theo cách này, chiều kích phục vụ và các công việc bác ái có nguy cơ trở thành thứ yếu. Trong khi chính ở đó chúng ta tìm thấy những cơ hội để chạm đến trái tim của những người cùng thời với chúng ta. Chẳng phải Giáo hội nên thể hiện bộ mặt xã hội và ngôn sứ của mình nếu muốn vẫn thích hợp cho thời nay sao?
– Chúng ta không thể đặt những sứ mạng này đối nghịch nhau. Chúng không mâu thuẫn nhau. Cầu nguyện, chầu Thánh Thể và thờ phượng không có nghĩa là lui vào phòng thánh. Nó không đúng. Một Giáo Hội không cử hành Thánh Thể thì không phải là một Giáo Hội. Nhưng một Giáo hội ẩn mình trong phòng thánh cũng không phải là một Giáo hội. Ổn định trong phòng thánh không phải là một việc thờ tự đúng đắn. Việc cử hành Thánh Thể có những hệ quả. Có việc bẻ bánh. Điều này bao hàm nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ quan tâm đến người khác. Cầu nguyện và dấn thân đi đôi với nhau. Việc thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em của chúng ta đi đôi với nhau, bởi vì nơi mỗi anh chị em chúng ta đều thấy Chúa Giêsu Kitô.
Hãy chú ý, sự dấn thân xã hội của Giáo hội là một phản ứng, một kết quả của việc thờ phượng. Do đó, chúng ta không được nhầm lẫn sự dấn thân này với hoạt động từ thiện mà ngay cả một người ngoại đạo cũng có thể thực hiện. Hoạt động xã hội của Giáo hội bắt nguồn từ bản chất của Giáo hội bởi vì Giáo hội nhận ra Chúa Giêsu trong đó. Điều này mạnh mẽ đến nỗi thậm chí còn trở thành thước đo để xét xử chúng ta, như Chúa Giêsu nói với chúng ta. Theo Mátthêu chương 25, chúng ta sẽ nghe thấy thước đo của lòng bác ái này của chúng ta trong Ngày Phán xét cuối cùng: “Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta ở tù các ngươi đến thăm ta; Ta đau yếu và các ngươi đã chăm sóc Ta…” Tất cả đều là những hoạt động xã hội, nhưng chúng không được thực hiện vì nghĩa vụ hay bổn phận xã hội, nhưng vì Chúa Giêsu hiện diện trong đó. Tuy nhiên, tôi sẽ không bao giờ nhận ra Chúa Giêsu trong người khác nếu tôi cũng không nhận ra Người trong việc chầu Thánh Thể và thờ phượng. Hai điều đi cùng nhau. Chúng phải liên kết với nhau. Có thể nói, một Giáo hội thuần túy phụng tự không phải là một Giáo hội, cũng như một Giáo hội thuần túy “xã hội” không phải là một Giáo hội. Cái này là hệ quả của cái kia, và cái kia dẫn đến cái này. Điều quan trọng là duy trì mối liên kết này và sự tương tác này.
Thưa Đức Thánh Cha, trong Bí tích Thánh Thể cũng có những lời khuyến khích đừng quên việc phục vụ và bác ái: quyên góp cho người nghèo, cầu thay nguyện giúp, ….
– Tôi chỉ có thể nhắc lại: thờ tự và phục vụ tha nhân đi đôi với nhau. Chúng ta chỉ tôn thờ Thiên Chúa, nhưng đồng thời chúng ta cũng phục vụ tha nhân là hình ảnh của Thiên Chúa. Mối dây này luôn có, đã có trong Cựu Ước. Khi Thiên Chúa ban luật pháp và giới luật cho dân Israel, Người luôn nói điều gì ở cuối? “Hãy chăm sóc trẻ mồ côi, góa phụ ngoại kiều và người di dân”. Người kêu gọi chú ý đặc biệt đến những người khốn khó.
Emmanuel Van Lierde
Nguồn: vaticannews.va/vi
Để lại một phản hồi
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.