Ngày thứ hai mươi ba
Ông Thánh Giuse Là Đấng Khi Vua Dữ Chết Đoạn,
Thì Đem Đức Chúa Giêsu Cùng Đức Mẹ Về Quê Cũ.
Trước hết thì gẫm : Đức Chúa Giêsu phải ở nhụ bạc bên nước Êgyptô đặng bảy năm, và khi vua Hêrôđê băng hà, thì thiên thần truyền cho ông thánh Giuse trở về quê xứ. Mỗi khi Đức Chúa Trời truyền lịnh, thì luôn luôn Người sai thiên thần hiện đến cùng ông thánh Giuse. Vì chưng theo thánh ý Đức Chúa Trời, thì ông thánh Giuse là Đấng làm đầu, là kẻ thế mặt Đức Chúa Cha, mà coi sóc gìn giữ gia thất thánh ở dưới thế này, coi đó thì biết Đức Chúa Cha kính trọng và tin cậy ông thánh Giuse là dường nào. Trên trời dưới đất, có vật chi quí giá bằng Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ chăng ?
Mà hai của quí trọng ấy, Đức Chúa Cha đã gởi gấm nơi tay thánh Cả Giuse, và trăm việc về gia đình này, thì phải đặt dưới quyền Người coi sóc. Đức Chúa Cha đã định ông thánh Giuse có phận sự cai quản gia đình, thì Người cũng định Đức Mẹ và Đức Chúa Giêsu cũng có phận sự phải vâng lời ông thánh Giuse. Đó là một gương rất tốt đẹp cho gia đình người giáo hữu, phải noi đòi bắt chước. Trong mỗi gia đình, Đức Chúa Trời cũng định như vậy, là người chồng đứng ra coi sóc dìu dắt chỉ bảo, vợ và con phải kính vâng tùng phục, như vậy mới ăn rập theo khuôn mẫu Đức Chúa Trời đã sắp đặt. Phải chi gia đình người công giáo chúng ta, đặng trở nên như gia thất thánh thưở xưa; là cho hết mọi người thuận thảo yêu nhau và mỗi người biết ở cho đúng địa vị mình đối với gia đình.
( Có thể bỏ vì dài quá không đũ giờ )
Sau nữa khi ông thánh Giuse đem gia thất thánh trở về đến xứ Giuđêa, nghe tin con vua Hêrôđê tên là Arkêlao lên kế vị vua cha, thì Người lo sợ vì theo lời người ta ví hổ phụ sanh hổ tử. Song lần này cũng như các lần khác. Đức Chúa Trời sai thiên thần hiện đến ban đêm, mà dạy ông thánh Giuse đem Đức Mẹ và Đức Chúa Giêsu về thành Nazareth thuộc xứ Gali lêa. Được lịnh Đức Chúa Cha, ông thánh Giuse liền đem gia thất thánh về thành Nazareth, là nơi Đức Chúa Giêsu ẩn ngụ cho đến ba mươi tuổi, thì Người mới ra giảng đạo.
Các việc này đã xảy ra y như lời tiên tri xưa đã phán : “Tao sẽ gọi Con Tao ở nước Êgyptô trở về”. Và cũng có lời tiên tri khác rằng : Người sẽ gọi là Người xứ Nazareth. Người có đạo, khi nghe nói tên Giêsu Nazareth, liền hiểu đó là Con Đức Chúa Trời đã xuống thế, và đã ẩn ngụ nơi thành nhỏ kia trong xứ Galilêa tên là thành Nazareth.
Song đây có một điều rất lạ, đáng cho ta để ý mà gẫm suy ; Ai đã làm cho hai lời tiên tri ấy đặng hiện thực, chẳng phải kẻ nghịch cùng Chúa sao ?
Hêrôđê cha làm cho Chúa phải trốn sang nước Êgyptô ; Hêrôđê con lại làm cho Chúa về thành Nazareth. Cả hai không ngờ, đã trở nên khí cụ cho Chúa dùng mà làm cho trọn thánh ý Người.
Lạy Chúa, có hai cách làm tôi và làm sáng danh Chúa : kẻ thì làm tôi và làm sáng danh Chúa cách thông thả và tự ý muốn làm ; kẻ khác thì làm tôi và làm sáng danh, dầu nó không muốn, dầu đang khi nó toan tính làm nghịch cùng Chúa ! Chúa phép tắc, Chúa cũng có thể dùng kẻ dữ, mà thi hành thánh lịnh của Chúa.
Lạy Chúa, cả đời con sống ở thế này, con xin chọn một cách làm tôi cùng làm sáng danh Chúa : là bởi lòng mến yêu Chúa, chẳng phải bị ép buộc như kẻ dữ. Lạy Chúa, con xin làm tôi Chúa, như nhiều linh hồn đạo đức sốt sắng, là những kẻ tình nguyện theo Chúa, bởi hiểu biết Chúa đáng yêu mến đáng kính thờ.
Tôi muốn làm tôi Chúa, hầu đặng kết hiệp muôn đời cùng Chúa trên nơi cõi thọ ; chớ chẳng phải như kẻ dữ, nó cũng phải làm tôi Chúa, nó cũng phải làm sáng danh Chúa, dầu nó chẳng muốn, song vô phước, kẻ ấy chẳng đặng phần thưởng đời sau mà lại phải khốn muôn kiếp.
Sau hết thì gẫm : Khi ông thánh Giuse được lịnh đem Đức Mẹ và Đức Chúa Giêsu trở về quê xứ, thì Người vui mừng là thể nào ! Lúc xưa, nghe lịnh phải trốn qua nước Êgyp tô, thì lòng Người lo buồn áy náy bao nhiêu, thì rày vui mừng là bấy nhiêu.
Đó ta hãy suy, Đức Chúa Trời đã bao lần để ta gặp sự cực sự buồn mà thử ta, nếu ta bằng lòng theo ý Chúa, chẳng sớm thì muộn Người sẽ ra tay cứu ta, chúc ấy ta sẽ đặng vui mừng lại. Trước kia ta buồn rầu, khốn cực bao nhiêu, rày đặng vui mừng bấy nhiêu.
Thánh giá có một sức mạnh lạ thường ; nếu ban đầu ta vui lòng vác, thì chẳng bao lâu, thánh giá chẳng còn nặng nữa, mà lại sẽ trở nên một nguồn sanh ra các sự vui khoái trong linh hồn ta. Bởi đó ta thấy các thánh xưa nay ham chịu khó, chịu cực, vì Chúa, và càng chịu khó chịu cực, thì trong tâm hồn lại đặng vui vẻ khoái lạc, tiếng người thế không nói ra đặng. Ta hãy bắt chước ông thánh Giuse, vâng theo thánh ý Chúa trong hết mọi sự, và sẳn lòng chịu mọi cơn gian nan tân khổ, thì chẳng bao lâu, Đức Chúa Trời sẽ trả lại sự vui mừng cho ta. Ta hãy vui lòng ở chốn lưu đày, như gia thất thánh xưa, phài trốn ngụ bảy năm bên nước Êgyp tô, song chắc có ngày Đức Chúa Trời sẽ nhớ đến ta, sẽ đem ta ra cùng đưa ta về đến quê nhà là nước thiên đàng.
Ta muốn đặng như vậy, thì phải lấy lòng trông cậy mà nguyện cùng ông thánh Giuse rằng : Lạy ông thánh Giuse là Đấng khi vua dữ chết đoạn, thì đem Đức Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ trở về quê cũ, xin cầu cho chúng con.
Việc lành phải làm : Là có ý mà trốn lánh những dịp hiểm nghèo về phần thiêng liêng.
Việc phải cầu xin : Là cầu xin cho kẻ chẳng trốn lánh những việc hiểm nghèo.
TRUYỆN THÁNH : – Ông thánh Giuse cứu cho khỏi phải mất linh hồn.
Xưa, có một người nữ, tuy đã khấn hứa giữ mình đồng trinh, mà phạm một tội trọng nghịch nhơn đức sạch sẽ, nên sợ hãi và thẹn thuổng, chẳng dám xưng tội ấy ra. Cho nên, lâu ngày linh hồn không ơn Chúa, phải làm tôi tớ ma quỉ. Bấy giờ lòng trí áy náy lo buồn, luông tâm như phải sâu bọ cắn rứt luôn đêm ngày không hở. Đang lúc gian nan như vậy ; người nữ ấy biết rõ là tại chưa xưng tội ấy, thì tinh thần chẳng đặng bằng an. Nên mới quyết lòng xin ông thánh Giuse giúp, cho mình thắng sự hổ ngươi giả trá ấy. Vậy trước hết dùng chín ngày, mà kính lễ ông thánh Giuse. Hằng ngày đọc kinh cầu ông thánh Giuse, cùng nhiều kinh khác để kính ông thánh Giuse. Đến ngày thứ chín, thì thấy trong mình có sức thiêng liêng, liền đến nhà thờ, xưng hết các tội rõ ràng, thì lòng lại đặng bằng an như trước. Từ đó người nữ này xem ông thánh Giuse như Đấng đã cứu linh hồn mình, nên phó thác linh hồn mình trong tay ông thánh Giuse. Gặp lúc gian nan, thì kêu tên Người, và hằng đeo tượng ảnh Người như thuẫn, mà đỡ gạt ma quỉ cho đến chết chẳng rời.
Để lại một phản hồi
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.