Từ tháng 2 cho tới tháng 7 năm 1858 Đức Mẹ đã hiện ra với chị Bernadettte Soubirous tại hang đá Massabielle ở Lộ Đức 18 lần.
Lần đầu tiên là ngày thứ năm 11 tháng hai, lần thứ hai ngày Chúa Nhật 14, lần thứ ba là ngày thứ năm 18 cùng tháng. Sau khi tham dự thánh lễ Bernadette xuống hang đá vào khoảng lúc 7 giờ, có bà Millet và cô Peyret đi theo. Bernadette đã sung sướng được nhìn thấy Đức Mẹ trong khoảng một giờ. Và trong lần này chị được nghe tiếng Đức Mẹ nói lần đầu tiên. Cô Antoinette Peyret đưa cho Bernadette một mảnh giấy, một cái bút với mực và nói: ”Đi hỏi Bà điều Bà muốn, và xin Bà viết ra”. Bernadette vâng lời làm theo. Đức Mẹ cười và trả lời: ”Điều Ta muốn nói với con không cần phải viết ra”. Sau khi cầm trí Đức Mẹ hỏi Bernadette: ”Con có muốn có lòng tốt đến đây trong 15 ngày không?” Bernadette kinh ngạc khi nghe Bà hỏi với tất cả sự lịch lãm và kính trọng đối với mình là một cô bé gái nghèo nàn như vậy. Bernadette nhanh nhẹn trả lời: ”Vâng, thưa Bà, con hứa với Bà… nếu cha mẹ con cho phép”. Đức Mẹ nói với Bernadette: ”Ta không hứa cho con hạnh phúc ở đời này, nhưng trong đời sau”. Với tất cả chúng tôi Bà thêm lời mời kín đáo: ”Ta ước muốn trông thấy người ta cũng đến”. Và Bernadette nói với chúng tôi điều chị nói với cô Antoinette: ”Bà nhìn chị trong lúc này”.
Lần thứ bốn Đức Mẹ hiện ra là thứ sáu 19-2. Sau thánh lễ vào khoảng 7 giờ chúng tôi thấy Bernadette, mẹ cô và dì Bernarde Castérot, bà Millet và vài phụ nữ khác ở Hang Đá. Bermadette làm dấu thánh gía, mà cô đã thấy Bà làm, và cô lần hạt Mân Côi. Mới tới kinh Kính Mừng thứ ba các chứng nhân trông thấy cô ”hân hoan” trong khoảng nửa giờ. Họ khâm phục các làn sóng tươi vui và các nụ cười rạng rỡ trên gương mặt cô. Bà mẹ Bernadette thấy con gái mình hiển dung liền kêu lên: ”Ôi lậy Chúa, con xin Chúa, xin Chúa đừng lấy mất con con”. Người ta nghe Bernadette nói: ”Ôi Bà đẹp biết chừng nào!” Họ hỏi Bà nói gì, Bernadette trả lời: ”Bà cám ơn tôi đã đến. Nữ Hoàng và Mẹ nói ”Cám ơn”. Bà nói với tôi rằng sau này Bà sẽ có các mạc khải cho tôi”. Đức Mẹ cần chuẩn bị cho Bernadette quen với sự thân tình lớn lao này. Nhưng trong khi loài người chỉ sau này mới nhận ra tầm quan trong của điều đến từ trời cao, thì hỏa ngục đoán biết rất sớm. Bernadette sẽ vén mở cho biết như sau: ”Trong khi tôi cầu nguyện, thì có các tiếng nói gọi tôi, phải nói là hàng ngàn người giận dữ. Thật khủng khiếp. Tiếng nói mạnh nhất đã kêu lên: ”Hãy cứu lấy mày đi! Hãy cứu lấy mày đi!” Nhưng Bà đã nhìn về phía sông Gave trong khi nhíu lông mày, và các tiếng nói đã tan biến”.
Lần hiện ra thứ năm là hôm sau thứ bẩy 20 tháng hai. Bernadette xuống Hang Đá sau thánh lễ với mẹ và dì Basile. Lần này có khoảng 30 nhân chứng. Bernadette tới Hang Đá Massabielle vào lúc 6 giờ rưỡi sáng. Chị không ngạc nhiên cũng không cảm động khi thấy đám đông đang đợi mình. Chị có cùng điệu bộ như thể chị chỉ là một nữ khán giả, và chị qùy gối xuống chỗ thường qùy. Không để ý đến các đôi mắt đang chăm chú nhìn mình, chị lấy tràng hạt ra và bắt đầu cầu nguyện.
Các nhân chứng cho biết gương mặt chị bất thình lình sáng lên, được biến đổi, rạng rỡ và thấm nhuần ánh sáng thiên linh, và phản ánh tuyệt vời của nó mà chúng tôi nhận biết, cho chúng tôi sự chắc chắn đầy tràn về trung tâm sáng láng mà chúng tôi không nhận thấy. Hôm đó người ta thấy Bernadette như bị đảo lộn, khi vui tươi khi sợ hãi; thân mình chị như bị động và kéo tới phía trước, lên cao; tay chị chắp lại giơ cao lên; mặt chị toàn màu xanh da trời và hốc hác, mắt mở lớn đẫm lệ chảy đài xuống mặt, các giọt lệ khác với các giọt lệ mà chúng ta khóc, chúng phát xuất từ một sự đau đớn tinh tuyền. Duyên dáng biết bao trong các cử điệu, các cúi đầu, trong các lời chào, nụ cười và cái nhìn của chị! Chị không còn là cô con gái của bà Louise Soubirous nữa, nhưng là con gái của một người Mẹ thiên quốc! Sau bốn mươi phút xuất thần, khi trở về nhà với bà mẹ trần gian, Bernadette đã thổ lộ với mẹ rằng Bà ”đã dạy cho chị từng tiếng một lời cầu nguyện chỉ cho một mình chị mà thôi”, lời cầu nguyện mà chị sẽ trung thành đọc mỗi ngày trong cuộc sống, nhưng đã không bao giờ cho ai biết nó.
Lần thứ sáu Đức Mẹ hiện ra với chị là ngày Chúa Nhật 21 tháng 2. Đây là Chúa Nhật đầu tiên Mùa Chay năm 1858. Vào lúc 6 giờ rưỡi sáng, vùng phụ cận hang đá có tới một trăm nhân chứng. Có cả một bác sĩ nữa. Đó là bác sĩ Dozous, ở gần quan sát tình trạng của chị Bernadette trong nửa giờ xuất thần, nhưng ông không khám phá ra sự qúa kích động thần kinh nào cả. Bác sĩ kể lại với chúng tôi rằng: ”Sau khi tôi đã buông tay cô ra, Bernadette tiến tới gần Hang Đá hơn một chút; chẳng mấy chốc tôi trông thấy gương mặt cô, cho tới lúc đó diễn tả niềm hạnh phúc toàn vẹn nhất, trở thành buồn sầu; nước mắt rơi xuống từ mắt và chảy dài trên má. Các thay đổi diện mạo trong trạng thái này khiến cho tôi ngạc nhiên. Sau khi cô đã cầu nguyện xong và nhân vật huyền nhiệm đã biến đi, tôi hỏi cô cho biết điều gì đã xảy ra trong tình trạng lâu dài ấy, cô trả lời tôi: ”Trong khi bỏ không nhìn tôi, Bà hướng cái nhìn ra xa ở bên trên đầu tôi; rồi lại nhìn tôi là người đã hỏi Bà điều khiến cho Bà buồn, Bà nói với tôi: Con hãy cầu ngyyện cho các người tội lỗi, cho thế giới qúa bị giao động. Tôi mau chóng được trấn an bởi lòng tốt và sự thanh thản mà tôi đã có thể trông thấy trên gương mặt Bà, và lập tức Bà biến đi”. Đó là ý muốn của Mẹ Maria trong ngày Chúa Nhật đầu tiên của mùa Chay: cầu nguyện và xin người ta cầu nguyện cho những người tội lỗi. Nhưng cũng phải đau khổ nữa. Cũng trong ngày đó Bernadette phải trình diện trước hai quyền bính dân sự và bị khảo cung. Ngày hôm ấy kết thúc trong một nỗi buồn lớn, vì ông bố của Bernadette cấm cô không được đến Hang Đá nữa.
Ngày 22 tháng 2 lúc 8 giờ 30 Bernadette cảm thấy bị lôi cuốn đi ra Hang Đá. Chị lần hạt trước sự hiện diện của nhiều người và cầu nguyện lâu giờ, nhưng chị đứng dậy và thú nhận là đã không trông thấy gì. Chị buồn sầu trở về nhà trong nước mắt. Chị giải thích với cha mẹ rằng: ”Đã có một hàng rào ngăn chặn đường đến Hang Đá, nhưng có một sức mạnh không thể cưỡng lại được đưa chị đến đó. Tưởng rằng mình đã làm phật lòng Bà, Bernadette tỳ vào cạnh giường khóc suốt buổi chiều hôm đó. Trước nỗi khổ đau chân thành sâu xa này của con, cha chị thôi cấm chị ra Hang Đá. Thế là tuy không hiện ra ngày hôm ấy, nhưng Đức Trinh Nữ rất thận trọng đã có được các hiệu qủa tuyệt vời: đó là sự khổ đau tinh tuyền của Bernadette khiến cho các lần hiện ra của Đức Mẹ được phong phú, cha của chị bỏ lệnh cấm chị, đồng thời nêu bật sự tôn trọng lệnh của cha mẹ.
Lần hiện ra thứ bẩy là vào ngày thứ ba 23 tháng 2. Mặc dù đã vỡ mộng ngày 22 tháng 2, ngay tù lúc 6 giờ sáng đã có 150-200 người đến Hang Đá. Nhiều người qùy cầu nguyện trong khi chờ đợi Bernadette. Có vài người đàn ông chưa tin vào thực tại các vụ hiện ra. Họ khám xét bên trong và chung quanh Hang Đá, nhưng thấy không có gì khả nghi. Trong số đó cũng có bác sĩ Dozous và ông Estrade, là chứng nhân trung thành và là sử gia của các biến cố Lộ Đức. Bernadette tới, có mẹ và hai bà dì Bernarde và Basile đi theo. Chị vào và xuất thần ngay từ các kinh Kính Mừng đầu tiên. Cuộc xuất thần kéo dài một gìơ. Để đề phòng cho Bernadette sẽ ngày càng gặp phải các mâu thuẫn của người này, và điều nguy hiểm hơn cho cô là sự tôn thờ của người khác, Đức Mẹ cho chị bước vào trong sự thân tình với Người. Ngày hôm đó Đức Mẹ cho chị biết ba bí mật. Sự thân tình ấy gắn bó chị với Đức Mẹ một cách chặt chẽ, tách rời chị khỏi các người khác và dậy chị trung thành với sứ mệnh của mình. Ba năm sau chị Bernadette đã có thể nói rằng: ”Bà đã cấm tôi không được nói các bí mật ấy cho ai, và tôi đã trung thành cho tới nay”. Chị đã trung thành cho tới cùng và đã mang theo các bí mật ấy vào cõi vĩnh hằng.
Lần thứ tám Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette là ngày thứ tư 24 tháng 2. Ông Estrade kể: ”Ít lâu sau khi xuất thần, thị nhân lắng nghe từ phía tảng đá, rồi như người nhận được một tin buồn mới, chị đã để rơi hai cánh tay và lệ tuôn rơi trên má. Trong một thái độ khiêm tốn chị đã qùy gối leo lên dốc trước hốc đá, và môi hôn đất ở mỗi bước”. Theo các chứng tá phải kết luận rằng ban đầu Bà đã hiện ra trên cây hồng như thường lệ, sau đó đã biến đi, và thị nhân đã tìm dưới vòm Hang Đá và đã tìm thấy Bà. Chính khi đó chị quay lại phía đám đông gồm 400-500 người. Mặt chị đẫm lệ. Tiếng nói nghẹn ngào trong tiếng nấc Bernadette chuyển sứ điệp của Bà cho đám đông: ”Sám hối, Sám hối, Sám hối”.
Lần hiện ra thứ chín là ngày thứ năm 25 tháng 2. Hôm đó Đức Mẹ Vô Nhiễm đã muốn Bernadette hạ mình thẳm sâu. Mẹ đã ra các lệnh xem ra không thể nào hiểu được và vô lý. Sự khiêm nhường và vâng lời này sẽ làm vọt lên điều mà người ta thích gọi là ”Suối Phép Lạ Lộ Đức”. Đám đông 400 người thấy Bernadette tiến tới trên đầu gối cho tới cuối Hang Đá, rồi xuống dốc, hướng về sông Gave, bất thình lình đứng lại trở vào Hang Đá và ở đó như đang lắng nghe một người nào đó mà chị không hiểu lệnh truyền. Sau đấy người ta thấy chị cào đất, uống một thứ nước đục chảy ra từ đó, rửa và cho đám đông thấy một gương mặt lem luốc bùn. Sau cùng người ta thấy chị ăn cỏ. Trong khi Bernadette trông thấy Bà mỉm cười, đám đông nghĩ rằng chị chỉ là một cô bé mất thăng bằng tâm trí, một người điên. Sau này chính chị Bernadette đã giải thích cảnh khiến cho mọi người đều vỡ mộng: ”Trong khi tôi cầu nguyện, Bà đã nói với tôi một cách thân hữu đồng thời nghiêm nghị. Hãy đi uống nước suối và rửa ở đó. Vì tôi không biết suối ở đâu nên tôi tin là không việc gì nên hướng về sông Gave. Bà đã gọi tôi và lấy ngón tay ra dấu cho tôi đến dưới Hang Đá: tôi đã vâng lời, nhưng tôi không trông thấy nước. Không biết lấy nước ở đâu tôi liền cào đất và đã có nước. Tôi đã để cho nó trong lại một chút rồi tôi uống và rửa mặt. Khi được hỏi tại sao lại ăn cỏ, Bernadette trả lời: ”Bà đã thôi thúc tôi bằng một chuyển động nội tâm”. Xem ra trong thị kiến kéo dài ba khắc này Bernadette đã không có sự hiển dung.
Chị Bernadette cũng cho biết ngày 22 và ngày 26 tháng 2 năm 1858 Đức Mẹ đã không hiện ra với chị. Hình như Đức Mẹ muốn lôi kéo sự chú ý của đám đông đối với suối nước sẽ trở thành chứng tá thường hằng việc hiện ra của Mẹ nơi đây, như dấu chỉ sự hiện diện trung gian ơn thánh của Mẹ. Và trong hai lần Đức Mẹ không hiện ra ấy, các giọt lệ mà chị Bernadette đã nhỏ ra trên đường từ Hang Đá về nhà chị sẽ khiến cho nước suối ấy trở nên phong phú.
Lần thứ 10 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ bẩy 27 tháng hai. Hôm đó đã có tới 800-900 người chờ đợi Bernadette. Chị đến Hang Đá vào khoảng 6 giờ rưỡi. Trong vòng 15 phút Bernadette lết trên đầu gối và hôn đất nhiều lần. Chị kể lại: ”Bà đã nói với tôi: Con hãy hôn đất để đền tội cho những người tội lỗi”. Và Đức Trinh Nữ Thánh còn nói thêm: ”Nếu điều đó không khiến cho con ghê tởm và mệt nhọc qúa”. Hai lần Bernadette ra hiệu cho đám đông cũng làm như chị. Lần thứ hai đám đông vâng lời. Từ ngày đó đất và hòn đá thánh tại Hang Đá Massabielle được phủ đầy các nụ hôn của dân chúng. Cũng trong ngày ấy Bà ban cho thị nhân sứ điệp này: ”Con hãy đi nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây”.
Lần thứ 11 Đức Mẹ hiện ra là ngày Chúa Nhật 28 tháng 2. Mặc dù mưa liên tục và trời lạnh kinh khủng, đã có một hai ngàn người hiện diện tại Hang Đá ngay từ sáng sớm. Bernadette tới Hang Đá lúc 7 giờ. Khi chị qùy xuống lần hạt và hôn đất, xem ra có một luồng gió mạnh thổi trên mọi người hiện diện. Tất cả đều qùy xuống hay cố gắng qùy xuống. Họ cầu nguyện và ai có thể làm được thì hôn đất với chị Bernadette. Đức Mẹ đã cho Bernadette biết vài điều thân tình, nhằm chuẩn bị và củng cố chị trước các khó khăn sắp tới, nhưng đã không có ai biết được là gì. Ngay trong ngày Chúa Nhật ấy, sau thánh lễ chính, Bernadette đã bị quan tòa Rives hỏi cung. Ông ta còn đe dọa nhốt tù chị.
Lần thứ 12 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ hai mùng 1 tháng 3. Lần đâu tiên cha của Bernadette đồng hành với con gái ra Hang Đá, nơi đã có 2.600 người đợi chị từ sáng sớm. Họ đã sung sướng sống 45 phút trong sự hiện diện của Đức Mẹ, mà vẻ đẹp phản ánh trên gương mặt của chị Bernadette. Hôm đó Đức Mẹ đã cho Bernadette và đám đông một bài học không thể nào quên được: đó là yêu thích tràng hạt Mân Côi, và luôn luôn đem tràng hạt trong mình, cho dù nó nghèo nàn thế nào đi nữa. Chị Bernadette đã dùng tràng hạt của một người khác nên Đức Mẹ hỏi chị: ”Tràng hạt của con đâu rồi?” Bernadette lấy tràng hạt của chị trong túi ra và giơ cho Đức Mẹ xem. Đức Mẹ mỉm cười bảo: ”Con hãy dùng tràng hạt ấy”.
Lần thứ 13 Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette là thứ ba mùng 2 tháng 3. Sáng hôm đó vào giờ như thường lệ Bernadette đã chỉ thấy Đức Mẹ một chốc lát.
Đã có khoảng 3.000 người hạnh phúc được chứng kiến. Đức Mẹ đã lập lại sứ điệp ngày 27 tháng 2: “Con hãy đi nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây”. Và lần này Đức Mẹ thêm: ”Mau chóng, cho dù nhỏ tí cũng được và đi rước kiệu đến đó”. Tuy đã hai ba lần bị cha sở tiếp đón rất tệ, trong cùng ngày hôm đó Bernadette đã có can đảm đến gặp cha sở hai lần, sáng và chiều. Chị đã làm công việc khó nhọc này vì chị yêu Đức Mẹ. Ai yêu có thể làm được mọi sự. Chị sẽ nói: Ai yêu thì làm mọi sự không mệt nhọc, hay yêu sự mệt nhọc ấy.
Lần thứ 14 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ tư mùng 3 tháng 3. Theo ông cảnh sát trưởng sáng hôm đó đã có 4.000 người đợi chị Bernadette. Chị đến Hang Đá vào lúc 6 giờ 45 phút. Bernadette cầu nguyện lâu giờ nhưng đứng lên mắt đẫm lệ và kêu lên: ”Bà đã không hiện ra với tôi”. Nhưng trong buổi sáng chị nghe thấy tiếng Đức Mẹ gọi trong nội tâm. Chị trở lại Hang Đá và lần này trông thấy Đức Mẹ. Đức Mẹ nói với chị: ”Con đã không thấy Ta sáng nay, bởi vì có nhiều người đến đây chỉ để xem điệu bộ của con trước sự hiện diện của Ta và họ không xứng đáng với điều này; bởi vì khi ngủ đêm tại Hang Đá họ đã làm nhơ nhuốc nó”. Nỗi khổ mà Bernadette cảm thấy đã như là một việc đền tội. Và Bernadette đi nói với cha sở: ”Bà đã mỉm cười khi con nói cha xin một phép lạ. Khi con xin Bà cho cây hồng nở hoa, bà lại mỉm cười, nhưng Bà muốn có một nhà nguyện”.
Lần thứ 15 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ năm mùng 4 tháng 3. Sau thánh lễ Bernadette xuống Hang Đá sau 7 giờ một chút. Đã có 20.000 người chứng kiến cuộc xuất thần kéo dài một giờ và bắt đầu sau kinh Kính Mừng thứ ba của chục thứ hai. Đức Mẹ hiện ra phía hốc đá bên phải. Bernadette mỉm cười rồi lại khóc, thay đổi nhau. Rồi chị phải leo lên dưới tảng đá nơi chị nói chuyện lâu với Đức Mẹ trong khi khóc. Khi thì Đức Mẹ vén mở cho chị biết các bí mật hạnh phúc của trời cao, lúc thì cho chị biết các bí mật đau buồn của thế giới tội lỗi. Nhưng cần phải có một vỡ mộng để cho các tâm hồn trưởng thảnh trong đức tin. Bà đã không nói tên mình, và cây hồng cũng đã không nở hoa trước đám đông, và Bà cũng đã không tỏ mình cho các tín hữu hành hương. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người đến viếng Hang Đá trong các ngày sau đó, và như thế họ đã khai mào cuộc hành hương tới Lộ Đức.
Mọi người đều muốn biết tên của Bà đã hiện ra nơi đây, nơi đã xảy ra các phép lạ khỏi bệnh cả thể. Những người mù được sáng mắt, người tê liệt đi lại được, người đang hấp hối chỗi dậy…
Lần thứ 16 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ năm 25 tháng 3 lễ Truyền Tin. Hôm trước Bernadette đã nghe tiếng Đức Mẹ gọi. Ôi! Tiếng nói mới êm dịu làm sao! Đêm thánh Nhập thể sẽ là một đêm thánh đối với Bernadette, một đêm được ngắt quãng bởi các kinh Kính Mừng Maria. Ngay từ sáng tinh mơ khoảng sau 5 giờ Bernadette đã muốn chạy ra Hang Đá, nhưng một cơn suyễn khiến chị không chạy được. Thật Đức Trinh Nữ tốt biết bao! Trong khi đi xuống Hang Đá chị đã thấy hốc đá sáng lên. Đức Mẹ đợi chị. Thật không tin được! Bernadette chỉ trông thấy Mẹ Maria, chứ không trông thấy đám đông chen lấn nhau hai bên Hang Đá. Chị kể như sau: ”Khi tôi đến trước Bà, tôi đã xin lỗi Bà vì đã tới trễ như vậy. Luôn luôn tốt đối với tôi, Bà gật đầu ra dấu cho tôi không cần phải xin lỗi. Khi đó tôi nói với Bà tất cả sự trìu mến, kính trọng và hạnh phúc của tôi tìm lại được Bà. Sau khi đã nói tất cả những gì đến từ con tim, tôi bắt đầu cầm lấy tràng hạt. Trong khi tôi cầu nguyện ý tưởng hỏi tên Bà liên tục được áp đặt trên trí khôn khiến tôi quên hết mọi tư tưởng khác. Tôi sợ mình trở thành người quấy rầy, khi đưa ra một câu hỏi vẫn chưa được trả lời, tuy nhiên có điều gì đó bắt buộc tôi nói. Sau cùng bằng một cử động không kìm hãm được, các lời ấy buột khỏi miệng và tôi hỏi Bà: ”Thưa Bà, Bà có muốn có lòng tốt nói cho con biết Bà là ai không?”. Cũng như với những câu hỏi trước Bà cúi đầu mỉm cười nhưng không trả lời. Tôi không biết tại sao sáng hôm ấy tôi cảm thấy can đảm hơn, và tôi lại xin Bà ơn cho tôi biết tên của Bà. Bà lại mỉm cười và lập lại cử chỉ chào duyên dáng và tiếp tục im lặng. Khi đó lần thứ ba, hai tay chắp lại, tôi tuyên bố mình bất xứng với ơn mà tôi xin, tôi lại bắt đầu cầu nguyện. Bà đứng trên cây hồng. Khi tôi hỏi lần thứ ba Bà tỏ vẻ nghiêm trang và xem ra khiêm nhường. Rôi bà chắp tay đưa lên ngực và nhìn trời. Sau cùng bà bỏ tay xuống chậm rãi như trong hình mề đai phép lạ và nghiêng mình về phía tôi, bà nói giọng rất dịu dàng: ”Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai”.
Nhưng Mẹ Maria không bỏ đi mà không nói lên một lần nữa ước muốn lớn lao của Mẹ: ”Ta muốn một nhà nguyện nơi đây”. Nơi Mẹ Vô Nhiễm đã đến cần phải có một bàn thờ, nơi Chúa Giêsu Con Mẹ có thể ngự xuống, bởi Đức Trinh Nữ đã đến chỉ để ban Chúa Giêsu. Bernadette đã không hiểu kiểu nói ”Vô Nhiễm Thai” là gì, nhưng cha sở sẽ biết. Vì thế chị đến gặp cha sở ngay và liên tiếp lập lại các lời của Đức Mẹ. Chính như thế mà Đức Trinh Nữ đã tự tỏ lộ trước hết cho vị linh mục qua trung gian của Bernadette. Và tin vĩ đại chính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã viếng thăm trái đất lan ra khắp nơi, tại Lộ Đức, trong các làng lân cận, trong nước Pháp và trên toàn thế giới. Và ở khắp nơi có niềm vui như niềm vui của Cuộc Viếng Thăm.
Lần thứ 17 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ tư mùng 7 tháng 4. Bernadette đã vui mừng biết bao được thấy Đức Mẹ trở lại vào ngày thứ tư trong tuần Bát Nhật Phục Sinh. Bây giờ chị biết Mẹ là Mẹ Chúa Kitô phục sinh. Ngay chiều ngày mùng 6 tháng 4 Đức Mẹ đã gọi chị. Người ta chuyền tai nhau tin Bernadette xuống Hang Đá. Khi chị đến đó lúc 6 giờ sáng đã có 1.200 người đợi sẵn. Họ trông thấy sự say mê của chị trong ba khắc đồng hồ. Chính trong ngày đó bác sĩ Dozous đã có thể quan sát trong vòng 15 phút ”phép lạ cây nến”. Ngọn lửa của cây nến đã không gây ra vết cháy nào trên da thịt chị trong lúc chị xuất thần và tham dự vào sự vô cảm của một thân xác vinh hiển.
Lần thứ 18 Đức Mẹ hiện ra là ngày thứ sáu 16 tháng 7 năm 1858 ngày lễ Đức Mẹ Camêlô. Đức Trinh Nữ gọi Bernadette trong khi chị đang cầu nguyện trong nhà thờ giáo xứ vào ban chiều. Vì Hang Đá đã bị rào bởi lệnh của chính quyền, Bernadette cùng với dì Lucile và vài bạn gái đi đến bờ bên phải của sông Gave trong cánh đồng Ribère đối diện với Hang Đá. Tất cả qùy gối và cầu nguyện. Sau một lúc Bernadette kêu lên: ”Vâng, vâng, Mẹ đó! Mẹ mỉm cười với chúng ta và chào chúng ta bên trên hàng rào cản”.
Đức Trinh Nữ trong hốc đá được chiếu sáng mỉm cười nhìn Bernadette rất lâu, cúi đầu và biến mất, để lại cho con gái Mẹ một niềm an bình dịu dàng. Chị Bernadette nói Đức Mẹ đã hiện ra ở chỗ thường ngày và không nói gì với tôi cả… Chưa bao giờ tôi thấy Mẹ đẹp như vậy. Chị Bernadette đã trông thấy Mẹ trở lại một cách vĩnh viễn, khi chị qua đời ngày 16 tháng 4 năm 1879. Chúng ta cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ trông thấy Mẹ.
(Thánh Mẫu Học bài 3336, 337)
Linh Tiến Khải
Để lại một phản hồi
Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.